189/2009/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1112
- 19
Nguyên đơn bà NĐ_Hoàng Thị Hoa trình bày: Bà và ông BĐ_Thu quen biết nhau từ khoảng năm 1983, sau đó đăng ký kết hộn vào ngày 15/01/1988 tại UBND xã Thành Đông A, huyện TH, tỉnh KG, sinh sống tại KG đên tháng 9/1999 thì chuyển về TP. HCM, có 02 con chung là Phạm Hoàng Yến, sinh ngày: 26/10/1998 và Phạm Hoàng Anh, sinh ngày: 02/11/1992. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh kể từ khi lấy nhau, nguyên nhân là do ông BĐ_Thu thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, về đêm khuya, đòi chém bà, đuổi bà ra khỏi nhà. Khi đó con trai bà là cháu Hoàng Anh mới 7 tuổi, việc say xỉn liên tục lặp đi lặp lại nhiều lần dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Ông BĐ_Thu có thái độ vô trách nhiệm với gia đình, con cái. Ông BĐ_Thu làm nghề mộc, gia đình bán tạp hóa, dù làm ở nhà, hay ở ngoài thì đều say xỉn như nhau rồi đi đến khuya mới về. Khi ông BĐ_Thu về, bà phải trực mở cửa và không dám nói câu nào, nếu nói là bị ông BĐ_Thu quậy, đòi bỏ nhà đi.
107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 927
- 13
Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.
103/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 324
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn, bà NĐ_Trần Thị Thủy xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ngày 21/6/2007, bà có cho bà BĐ_Trần Thị Nhiên vay 5.000.000 đồng để bà BĐ_Nhiên trả nợ Ngân hàng Chính sách Xã hội Tỉnh. Khi vay, bà BĐ_Nhiên có viết giấy vay và hẹn 15 ngày sau sẽ trả. Theo giấy nợ thì không ghi thoả thuận lãi suất nhưng hai bên có thoả thuận bằng miệng là lãi tính theo ngày, cứ một ngày là 15.000 đồng tiền lãi trên số nợ 5.000.000 đồng. Thế nhưng, 15 ngày sau khi vay bà BĐ_Nhiên không trả vốn và trả lãi theo như thỏa thuận nêu trên, đòi nợ nhiều lần không được, bà NĐ_Thủy đã gửi đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã LP hoà giải. Đến ngày 19/6/2008, bà NĐ_Thủy có Đơn khởi kiện yêu cầu Toà án xử buộc bà BĐ_Nhiên hoàn trả số nợ gốc 5.000.000 đồng và lãi suất từ khi vay cho đến nay.
100/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1515
- 24
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm xác định yêu cầu cầu khỏi kiện như sau: Bà và một số người quen biết và rủ nhau cùng chơi hụi. Mục đích của chơi hụi là góp vốn cho nhau dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do được tin tưởng nên mọi người cử Bà làm chủ hụi, là người có trách nhiệm thu tiền hụi của các thành viên để đưa cho người hốt hụi. Người hốt hụi phải chi cho bà số tiền là 50% trên mệnh giá của phần hụi, ví dụ hụi 1.000.000 đồng một phần thì khi hốt hụi thành viên nào được hốt sẽ chi cho Bà 500.000 đồng gọi là tiền hoa hồng. Chủ hụi là người ghi và giữ sổ hụi và khi bắt đầu tổ chức dây hụi thì chủ hụi có trách nhiệm ghi cho mỗi thành viên một tờ giấy để theo dõi, nội dung tờ giấy ghi ngày tháng năm bắt đầu chơi, tên các thành viên chơi hụi, tổng số phần hụi, nếu có tranh chấp thì các thành viên căn cứ vào tờ giấy ghi hụi sẽ gặp chủ hụi để giải quyết. Mọi người thoả thuận bằng miệng với nhau về cách chơi.
98/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 359
- 8
Nguyên đơn vợ chồng ông NĐ_Dương Văn Long bà NĐ_Trần Thị Thủy trình bày: Nguồn gốc 764m2 thuộc thửa 287 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã PT, huyện XM, tỉnh BR - VT là một phần đất trong tổng diện tích khoảng 3,5 mẫu của cha mẹ ông NĐ_Long để lại cho ông NĐ_Dương Văn Long. Mặc dù vợ chồng ông NĐ_Long vẫn sử dụng đất, nhưng do sơ xuất khi đăng ký kê khai làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất, nên năm 1997 ông NĐ_Long được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 32.925m2. Vợ chồng ông BĐ_Huỳnh Minh Hùng bà BĐ_Ngô Thị Ngân là người có đất liền kề với đất của vợ chồng ông NĐ_Long đã đăng ký kê khai phần diện tích ông bà kê khai bị thiếu, hiện nay qua đo đạc xác định được phần diện tích đất này là 764m2 thuộc thửa 287 nay là thửa 547, tờ bản đồ số 08, xã PT. Do vợ chồng ông BĐ_Hùng đã chuyển nhượng diện tích đất này cho ông LQ_Nguyên Văn Soa, nên vợ chồng ông NĐ_Long có yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hùng phải trả cho ông bà diện tích đất này.