44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 360
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.
33/2009/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 413
- 3
Trong đơn khởi kiện để ngày 30-05-2006, bản tự khai ngày 22-12-2006, biên bản hòa giải có tại hồ sơ phiên tòa, nguyên đơn là chị Thái Thị Loan trình bày: Giữa chị với anh Lê Minh Tuấn qua thời gian tìm hiểu, anh chị tổ chức đám cưới và đăng kí kết hôn tại UBND phường Thống Nhất thành phố PL vào năm 1991 trong quá trình chung sống chị và anh Tuấn xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nhiều lần anh Tuấn uống rượu về hành hạ và đánh đập chị có lần chị phải đi cấp cứu. Nhưng vì nghĩ đến các con chị phải nhịn nhục, nhưng trong ba năm trở lại đây anh lại càng đánh đập chị nhiều hơn, nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị yêu cầu được ly hôn.
23/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1202
- 12
Theo án sơ thẩm, Luật sư PND - người bảo vệ quyền lợi cho phía nguyên đơn trình bày: Chị Nguyễn Thị Hòa và anh Nguyễn Văn Sa tự nguyện sống chung với nhau như vự chồng vào năm 1992 và có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã TA, thành phố MT. Thời gian đầu chung sống có hạnh phúc, đến đầu năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh Sa nhậu nhẹt không lo làm ăn, không lo kinh tế gia đình. Chị Hòa nhiều lần khuyên can, nhưng anh không nghe mà còn đánh đập chị Hòa nhiều lần, hai người đã ly thân từ tháng 07/2005 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài trầm trọng, không thể giải quyết được, nên chị Hòa xin được ly hôn với anh Sa.
33/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1511
- 31
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Bà NĐ_Thủy tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất với bà BĐ_Chín đối với thửa đất số 218 tờ bản đồ số 32, diện tích 123,8m2, thuộc TT PH, huyện ĐĐ. Đất hiện tại chưa có giấy chứng nhận QSD đất và các bên đương sự cũng không có các giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai. Nguồn gốc thửa đất này các bên đương sự đều thừa nhận là của bà Nguyễn Thị Quá (là mẹ bà NĐ_Thủy) có trước giải phóng.
28/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1271
- 23
Nguồn gốc mảnh đất có diện tích 312m7 thuộc thửa số 215, tờ bản đồ số 05, tọa lạc tại phường PN, thị xã BR là do, vào năm 2004, bà NĐ_Hảo và ông LQ_Trần Đại Kiên nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn Hùng và bà Lê Thị Cúc. Đến ngày 30/9/2004, Ủy ban nhân dân thị xã BR đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 536506 cho vợ chồng bà NĐ_Hảo và ông LQ_Kiên, thửa đất này có tứ cận như sau: Một phía giáp đất ông BĐ_Nguyễn Duy Quang, hai phía giáp với đất bà Cúc, phía còn lại giáp đất của bà Trần Thị Minh Hương. Đất có chiều dài 24m, chiều ngang 13m, trên thửa đât này có xây một nhà từ đường và trồng một số cây kiểng.