20/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 590
- 5
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 31 tháng 12 năm 2003 anh BĐ_Linh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không công nhận cháu Nguyễn Văn Phương là con chung của anh với chị NĐ_Lộc, không thống nhất cấp dưỡng nuôi cháu Phương cũng như tiền lo chi phí sinh sản bằng 500.000 đồng. Anh BĐ_Linh yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN để xác định cháu Phương có phải là con chung của Anh với chị NĐ_Lộc, nếu cháu Phương đúng là con của anh, anh sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cùng như tiền xe đi lại của gia đình chị NĐ_Lộc, tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng tương ứng số tiền mà gia đình chị NĐ_Lộc đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng). Chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng (mẹ của chị NĐ_Lộc) cũng yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN nếu cháu Phương không phải là con chung của anh BĐ_Linh với chị, thì chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cũng như tiền xe đi lại của anh BĐ_Linh và gia đình anh, tiền lãi theo lãi suất của Ngân hàng tương ứng với số tiền mà gia đình anh BĐ_Linh đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng).
19/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 576
- 4
Nguyên đơn chị NĐ_Nguyễn Thị Hồng Ngân trình bày: Trước đây chị kết hôn với anh BĐ_Võ Văn Hiệu vào năm 1997, không có đăng ký kết hôn, ngày cưới bên anh BĐ_Hiệu có cho chị 01 đôi bông tai vàng 24K nặng 01 chỉ và 01 sợi dây chuyền vàng 24K nặng 02 chỉ. Tổng số nữ trang kể trên vợ chồng thống nhất bán để cất nhà riêng, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 5-6 tháng thì xảy ra mâu thuẫn nhỏ và vợ chồng tiếp tục chung sống. Đến năm 2000 chị sinh 01 đứa con và từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Lý do anh BĐ_Hiệu chơi cờ bạc, đá gà, chị báo cho cha mẹ chồng hay nhưng anh BĐ_Hiệu không sửa đổi mà tánh nào tật nấy, có lần chị khuyên ngăn anh BĐ_Hiệu đánh đập và đuổi chị ra khỏi nhà nhiều lần, chị xét thấy hạnh phúc vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên chị quyết định ra đi về bên cha mẹ chị ở và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ năm 2000 cho đến nay.
96/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 804
- 11
Ông Nguyễn Văn Quéo và bà Lê Thị Kiều chung sống với nhau có tất cả 10 người con. Trong đó có NĐ_Nguyễn Văn Hùng và BĐ_Nguyễn Thị Sương. Tất cả các con của ông bà hiện tại đã có gia đình tư riêng. Tuy nhiên sau khi ông Quéo qua đời, bà Kiều chung sống với người con gái út là chị BĐ_Sương. Đến năm 2002 bà Kiều mất để lại khối tài sản gồm công đất vườn và 01 công đất ruộng.
11/2004/PT.HNGĐ Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 724
- 13
Nguyên đơn bà NĐ_Hoàng Kim Phụng trình bày: Tôi và anh BĐ_Hưng là hai vợ chồng, năm 2002 chúng tôi đã xin ly hôn và Tòa án nhân dân thành phố NT đã có quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 293/TTLH ngày 15/08/2003. Khi ly hôn chúng tôi chưa phân chia tài sản chung vợ chồng. Nguồn gốc căn nhà số 9, đường số X, PL, NT là do vợ chồng chúng tôi tạo lập trên phần đất của cha mẹ chồng là ông LQ_Hoạt – bà LQ_Thìn cho vào năm 1989, khi cho chỉ nói miệng không làm giấy tờ gì. Vợ chồng chúng tôi tự xây nhà trên đất và ở đó từ năm 1989 cho đến năm 2003. Nhà đất chưa được cấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở.
17/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1065
- 13
Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Theo nguyên đơn ông NĐ_Phạm Văn Quýt, trình bày: Ông với bà BĐ_Trịnh Thị Hoa Linh kết hôn năm 1978 không có đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn ông với bà BĐ_Linh sống hạnh phúc được 24 năm. Đến năm 2002 thì vợ chồng ly thân, do bà BĐ_Linh có tình ý với người chồng cũ. Trong quá trình chung sống vợ chồng có 03 người con chung: 1/ LQ_Phạm Hoàng Lộc, sinh năm: 1983. 2/ LQ_Phạm Hoàng Ninh, sinh, năm: 1983. 3/ LQ_Phạm Thị Bích Thi, sinh năm: 1980. Các con nay đã trưởng thành. Về tài sản chung có: Diện tích đất 8.664m2.