20/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 880
- 14
Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở
Tại đơn khởi kiện ngày 01/11/2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Huyền Thương trình bày: Cha, mẹ của bà là cụ Nguyễn Văn Bông, cụ Phí Thị Nhớn có bốn người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Cường, ông LQ_Nguyễn Hữu Bùi, ông Nguyễn Đức Thiện (đã chết) và bà NĐ_Trần Huyền Thương, về tài sản hai cụ tạo lập hai căn nhà có diên tích 40m2 và 36m2 trên diện tích 812m2đất tại số 28 BPĐ, nhường 16, quận Y, thành phố HCM. Cụ Bông chết năm 1990 không để lại di chúc. Ngày 18/01/1997, cụ Phí Thị Nhớn lập di chúc định đoạt nhà, đất tại số 28 BPĐ, theo đó: ông LQ_Nguyễn Văn Cường được chia căn nhà 36m2 trên diện tích 336m2 đất; ông Nguyễn Đức Thiện và ông LQ_Nguyễn Hữu Bùi được chia chung diện tích 224m2 đất và anh BĐ_Nguyễn Hồng Tiến được chia căn nhà 40m2 trên diện tích 252m2 đất.
17/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 626
- 12
Cố Tý chết để lại 15.000m2 đất vườn và 45.000m2 đất ruộng và một số đồ dùng. Sau khi cố Tý chết, mẹ ông sử dụng toàn bộ đất và nhà. Năm 1963, 1964 ông và ông Trác đi lính, năm 1975 ông về lập gia đình ở chung cùng cụ Đê khoảng 1 năm thì lên VL mua nhà ở tại đây. Năm 1975, ông Trác đi nước ngoài đến nay. Ông BĐ_Lương lập gia đình năm 1960, ở chung cùng cụ Đê, sau đó trốn quân dịch phải đi địa phương khác, vợ con ông BĐ_Lương vẫn ở cùng cụ Đê, khi giải phóng ông BĐ_Lương cũng mới về quê. Sau năm 1975, cụ Đê vẫn quản lý toàn bộ đất. Năm 1976, cụ Đê tạm chia cho ông 15.000m2 đất ruộng, nhưng ông BĐ_Lương chỉ đo cho ông 12.000m2 và 4.000m2 đất vườn. Cụ Đê sử dụng 10.000m2 đất vườn để thờ cúng và 5.000m2 đất ruộng, còn lại ông BĐ_Lương sử dụng 28.000m2 đất ruộng. Năm 1979, đưa toàn bộ đất ruộng mở Tập đoàn, đến năm 1981 tan rã Tập đoàn, ông BĐ_Lương lấy luôn cả 5.000m2 đất ruộng của cụ Đê, cụ Đê chỉ sống nhờ đất vườn, nhưng vẫn đóng thuế toàn bộ. Năm 1991, có đoàn đo đạc của Tỉnh đến, ông BĐ_Lương kê khai đứng tên toàn bộ đất ruộng vườn. Năm 1992, cụ Đê chết, ông BĐ_Lương quản lý toàn bộ đất đến nay và ông BĐ_Lương tự ý chia cho các con ông BĐ_Lương một phần.
17/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 377
- 6
Cố Tý chết để lại 15.000m2 đất vườn và 45.000m2 đất ruộng và một số đồ dùng. Sau khi cố Tý chết, mẹ ông sử dụng toàn bộ đất và nhà. Năm 1963, 1964 ông và ông Trác đi lính, năm 1975 ông về lập gia đình ở chung cùng cụ Đê khoảng 1 năm thì lên VL mua nhà ở tại đây. Năm 1975, ông Trác đi nước ngoài đến nay. Ông BĐ_Lương lập gia đình năm 1960, ở chung cùng cụ Đê, sau đó trốn quân dịch phải đi địa phương khác, vợ con ông BĐ_Lương vẫn ở cùng cụ Đê, khi giải phóng ông BĐ_Lương cũng mới về quê. Sau năm 1975, cụ Đê vẫn quản lý toàn bộ đất. Năm 1976, cụ Đê tạm chia cho ông 15.000m2 đất ruộng, nhưng ông BĐ_Lương chỉ đo cho ông 12.000m2 và 4.000m2 đất vườn. Cụ Đê sử dụng 10.000m2 đất vườn để thờ cúng và 5.000m2 đất ruộng, còn lại ông BĐ_Lương sử dụng 28.000m2 đất ruộng. Năm 1979, đưa toàn bộ đất ruộng mở Tập đoàn, đến năm 1981 tan rã Tập đoàn, ông BĐ_Lương lấy luôn cả 5.000m2 đất ruộng của cụ Đê, cụ Đê chỉ sống nhờ đất vườn, nhưng vẫn đóng thuế toàn bộ. Năm 1991, có đoàn đo đạc của Tỉnh đến, ông BĐ_Lương kê khai đứng tên toàn bộ đất ruộng vườn. Năm 1992, cụ Đê chết, ông BĐ_Lương quản lý toàn bộ đất đến nay và ông BĐ_Lương tự ý chia cho các con ông BĐ_Lương một phần.
15/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 412
- 6
Năm 1971, cụ Thi và cụ Thung lập di chúc (có xác nhận ngày 20/6/1971 của cơ quan có thẩm quyền) chia tài sản ở huyện HL, tỉnh TH cho các con. Theo di chúc thì ông NĐ_Kiên được chia 01 ao vuông và đám đất vườn; ông Lộc, ông NĐ_Kiên, bà LQ_Tám, bà LQ_Hà được thu hoạch các cây dừa trên vườn và 1 số đồ dùng gia đình. Năm 1978, cụ Thung chết, năm 1979 ông LQ_Mười chuyển về huyện HL tỉnh TH công tác; năm 1981 ông LQ_Mười và ông NĐ_Kiên thỏa thuận: ông LQ_Mười trả cho ông NĐ_Kiên 40 cây luồng để được xây dựng nhà ở trên đất vườn ông NĐ_Kiên được chia, còn ao thì ông NĐ_Kiên và ông LQ_Mười thả cá chung.
81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 288
- 7
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2010 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyết trình bày: Mẹ bà cụ Trần Thị Mần (đã chết năm 2006), có thửa đất số 26, tờ bản đồ số 2 thuộc đội 14, thôn 5, xã TX 1, huyện NT, tỉnh QN, diện tích 100m2 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/8/1996. Trên thửa đất này, bà LQ_Tuyết đã xây dựng nhà ở trên diện tích 70m2 đất, còn lại 30m2 hộ gia đình bà BĐ_Trần Thị Bốn liền kề đã xây dựng trại mộc. Theo Biên bản định giá và sơ đồ hiện trạng lập ngày 21/01/2011, thì diện tích đất tranh chấp là 03 phân mảnh có diện tích là 23,78 + 6,38 + 1,87 = 32,03m2, trên đó có tài sản chái lợp tôn là trại mộc của bà BĐ_Bốn. Bà LQ_Tuyết yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà BĐ_Bốn tháo dỡ tài sản gắn liền với diện tích đất tranh chấp, trả lại toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho bà.