258/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 993
- 12
Theo đơn khởi kiện ngày 23/10/2006 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Thư và ông Nguyễn Kim Cương đại diện của bà NĐ_Thư khai: Gia đình ông được gia tộc để lại một phần đất tại ấp Sò Đọ, thị trấn HN, huyệp ĐH, năm 1990 ông Huỳnh Kim Chi (chồng bà NĐ_Thư, cha ông Cương) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất loại bìa trắng diện tích 7.065m2, ông Cương được cấp quyền sử dụng đất 6.92lm2. Năm 1997 ông Chi mất, bà NĐ_Thư thấy hoàn cảnh gia đình ông BĐ_Huỳnh Văn Công là cán bộ Trường bổ túc, khó khăn không có nhà ở do bị giải tỏa, vợ lại bị bệnh, xuất phát từ tình cảm bạn bè nên bà NĐ_Thư cho ông BĐ_Công một phần đất cất nhà ở, khi nào Nhà nước giải quyết chính sách cho ông BĐ_Công thì trả lại đất, năm 2004 ông BĐ_Công được nhà nước cấp nhà tình thương, đã đổ vật tư để xây nhà tình thương trên đất của ông, gia đình ông ngăn cản và yêu cầu ông BĐ_Công trả đất nhưng ông BĐ_Công không trả. Nay ông Cương được bà NĐ_Thư ủy quyền tham gia tố tụng yêu cầu ông BĐ_Công dỡ nhà trả đất mà Tòa án đã đo đạc là 200m2, ông Cương đồng ý bồi thường các tài sản trên đất.
257/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 510
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 6/10/2004 của bà NĐ_Trần Thị Ngân và lời khai của ông Nguyễn Văn Hòa đại diện cho nguyên đơn trình bày: Năm 1966, bà có mua của Linh mục Đinh Xuân Hải hai lô đất mang số hiệu 1450B và 1450C tọa lạc tại xã TSN, quận TB, tỉnh GĐ (nay là phường TSN, quận TP, thành phố HCM.) Sau khi mua đất đã cất nhà trên hai lô đất đó. Do gia đình bà đi kinh tế mới nên bán một lô đất mang số hiệu 1450B, lô còn lại 1450C để lại cho các con ở, thỉnh thoảng bà đơn có về thăm nhà và các con. Năm 1980, chủ nhà của lô đất 1450B bán nhà lại cho bà BĐ_Lê Thị Đan. Một thời gian sau đó gia đình có việc nên không có ai ở tại nhà này mà tập trung về ở tại khu kinh tế mới. Đến năm 1992, bà BĐ_Đan lợi dụng việc không có ai ở nhà, nên đã chiếm phần nhà và đất của gia đình bà bà cũng đã yêu cầu nhưng bà BĐ_Đan không trả. Sau đó, bà có khởi kiện tại địa phương nhưng vẫn không có kết quả. Nay yêu cầu bà BĐ_Đan phải trả lại nền nhà có diện tích 4m X 18m cho bà vì căn nhà cũ đã bị phá bỏ và bà BĐ_Đan đã xây dựng thành nhà cấp 4
13/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 590
- 19
Tại đơn khởi kiện ngày 20/9/2004 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Thương (do bà Đỗ Thị Ngọc Mai đại diện theo ủy quyền) trình bày: Ông LQ_Gérard Laneal và bà LQ_Pierrette Laneal née Collin (gọi tắt là ông bà LQ_Laneal), đều có quốc tịch Pháp đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư và xin mở văn phòng đại diện Công ty của Pháp tại tỉnh KH. Để có phương tiện đi lại, ngày 06/01/2003 Ông Gérard đã mua của Công ty TNHH Sao Mai Anh một chiếc xe ô tô du lịch 7 chỗ hiệu Toyota, giá 21.000 USD, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng (VAT). Do ông bà LQ_Laneal không đủ điều kiện đứng tên đăng ký xe, nên đã cho bà NĐ_Thương chiếc xe này, nhưng bà NĐ_Thương chưa có hộ khẩu thường trú tại NT và chưa có bằng lái ô tô nên không thể đăng ký xe. Bà NĐ_Thương, ông bà LQ_Laneal đã nhờ ông BĐ_Quảng Văn Thân - Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thương mại và dịch vụ du lịch Hai An Tour (gọi tắt là DNTN R-V) đứng tên đăng ký xe và sang tên cho bà NĐ_Thương khi bà NĐ_Thương đủ điều kiện đăng ký xe (thỏa thuận này không lập giấy tờ).
222/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 513
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2007 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Trần Hồng Thức khai: Ngôi nhà mà ông đang sở hữu có nguồn gốc do cha mẹ ông mua của ông Nguyễn Văn Tâm và vợ là bà Trần Thị Lịch ngày 21/3/1983. Cha mẹ ông cho ông ngòi nhà này và ngay 30/9/1998 ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà ở là 69,52m2 trên 73,10m2 đất thửa số 07 tờ bản đồ số 1K, đường 827, khóm 1, thị trấn TV Liền kề với đầu hồi nhà ông là nhà cùa ông BĐ_Huỳnh Văn Hà (ông BĐ_Hà là dượng rể của ông). Ranh giới giữa hai nhà lúc bấy giờ là tấm vách tường do ông BĐ_Hà xây dựng, ông sử dung nhờ vách tường của ông BĐ_Hà, còn đầu hồi nhà ông BĐ_Hà sử dụng nhờ phần không gian bên phần đất của nhà ông. Sở dĩ có việc dùng chung vách là do nhà của hai bên vốn là một ngôi nhà 3 căn của người chủ trước đây tên là Nguyễn Văn Sâm. Ông ngoại ông mua một căn cho dì ruột của ông tên Nguyễn Thị Anh. Đến năm 1972 bà Anh đã làm lại nhà mới cao hơn nên mái ngói phủ sang căn liền kê. Năm 1983 mẹ ông mới mua hai căn còn lại liền kề với nhà này đã thuộc quyền sở hữu của ông BĐ_Hà.
216/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1323
- 18
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 1994, ông NĐ_Riêng nhận chuyển nhượng của bà LQ_Lê Thị Hoàng Ý l.000m2 đất tại ấp Bình Triệu, xã HBC, huyện TĐ (nay là phường HBC, quận TĐ). Ngày 11/7/1997, ông NĐ_Riêng chuyển nhượng lại cho bà BĐ_Lê Thị Nhiên quyền sử dụng 250m2 đất (trong diện tích l.000m2) với giá 46 lượng vàng SJC. Hai bên thỏa thuận từ khi ký hợp đồng đến khi nhận đất, bà BĐ_Nhiên phải đặt cọc và thanh toán tổng cộng 90% giá trị hợp đồng là 41,4 lượng vàng SJC, khi mà ông NĐ_Riêng hoàn tất thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho bà BĐ_Nhiên thì bà BĐ_Nhiên phải thanh toán nốt số vàng còn thiếu là 4,6 lượng. Bà BĐ_Nhiên đã đặt cọc và thanh toán cho ông NĐ_Riêng tổng cộng 41,4 lượng vàng SJC. Ông NĐ_Riêng đã giao đất cho bà BĐ_Nhiên sử dụng. Tuy nhiên, quá trình sử dụng thì bà BĐ_Nhiên lấn chiếm thêm một phần diện tích đất mà ông NĐ_Riêng đã thỏa thuận sang nhượng cho người khác và việc giao dịch giữa ông và bà BĐ_Nhiên lại trái pháp luật nếu ông yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên; bà BĐ_Nhiên trả lại đất cho ông và ông sẽ hoàn trả lại bà BĐ_Nhiên toàn bộ số vàng ông đã nhận