81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 235
- 10
Sau năm 1975, ông Ngụy Tình vượt biên. Căn nhà 44 BĐ do Nhà nước quản lý. Ông làm đơn xin lại căn nhà. Ngày 24/5/1983, Ủy ban nhân dân thị xã CĐ ban hành Quyết định số 97/QĐ-UB giao lại căn nhà 44 BĐ cho ông làm chủ quyền và ông đã đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ này. Tháng 4/1985, cụ Vinh ốm nặng, ông phải khóa cửa bỏ trống nhà 44 BĐ và chuyển về ở tại nhà số 93 NĐC để chăm sóc cụ Vinh thì vợ chồng ông BĐ_Phạm Hữu Cần, bà LQ_Lưu Ngọc Di tự ý phá khóa vào chiếm căn nhà 44 BĐ để ở. Nay ông yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu căn nhà 44 BĐ của ông, yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Cần, bà LQ_Di trả lại nhà cho ông.
79/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 249
- 6
Ngày 26/7/2008, ông sang Úc định cư, nhưng vẫn thường xuyên gửi tiền về cho cụ Điệp. Tháng 7/2009, ông về thăm cụ Điệp và cụ Điệp có nói: Nhà đã quá cũ kỹ và mục nát; cụ Điệp muốn xây lại nhà. Cụ Điệp có làm đơn xin chính quyền địa phương cho sửa chữa nhà ngày 20/4/2009. Tiền xây nhà của vợ chồng ông BĐ_Thế, bà LQ_Tố bỏ ra. Sau khi xây nhà, vợ chồng ông BĐ_Thế dọn về ở chung với cụ Điệp. Ngày 07/11/2009, cụ Điệp chết, không để lại di chúc. Ông và ông BĐ_Thế chi phí ma chay cho cụ Điệp, nhưng ông không tranh chấp về phần này. Nay ông khởi kiện và yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của cha mẹ để lại là ½ diện tích đất thổ vườn và căn nhà trên.
78/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 324
- 6
Ông BĐ_Toàn có xuất trình 03 bản “Chúc thư giao quyền thừa kế” đề tên cụ Ca lập ngày 02/1/1996, có chữ ký đề tên ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin nhưng ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin đều cho rằng các ông không ký vào 03 chúc thư trên mà chỉ ký vào 01 tờ giấy trắng do ông BĐ_Toàn nhờ ký để làm thủ tục vay tiền của Ngân hàng, nên không thừa nhận các di chúc trên, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của 02 cụ cho 08 người con và chia bằng hiện vật; xin được sử dụng nhà gỗ 03 gian và diện tích đất được chia để làm nơi thờ cúng cha mẹ. Đồng thời, đề nghị Tòa án giám định 03 “Chúc thư giao quyền thừa kế” và giám định chữ ký của ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Tin, ông NĐ_Đinh trong 03 chúc thư trên.
77/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 835
- 31
Tuy nhiên, đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình cụ Còn cho cụ Quế thuê và trước khi cụ Quế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997 thì năm 1993 chính quyền địa phương đã giải quyết tranh chấp và gia đình cụ Quế đã đồng ý trả gia đình cụ Còn 5 lượng vàng. Theo nguyên đơn thì nay gia đình cụ NĐ_Ái có nhiều người (14 người con) nhưng chỉ còn duy nhất một căn nhà trong hẻm là 262/2H HVB nên cũng khó khăn. Đất tranh chấp cụ Quế mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 166m2 (đo đạc thực tế là 209,9m2). Vì vậy, khi giải quyết lại vụ án cũng cần xem xét để đôi bên có thể thương lượng, gia đình cụ Quế có thể hỗ trợ phần nào kinh tế để giảm bớt khó khăn cho gia đinh cụ NĐ_Ái và cũng là phù hợp với đạo lý
76/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1469
- 35
Năm 1982, gia đình bà NĐ_Chiếu gia nhập Tập đoàn II và được giao thửa đất số 354, tờ bản đồ số 2, diện tích 1220m2 để canh tác. Năm 1985, Tập đoàn giải thể, không ai sử dụng nên vợ chồng bà NĐ_Chiếu vẫn trực tiếp canh tác trồng rau muống. Tại Báo cáo số 67/BC-UB ngày 12/9/2000 và Báo cáo số 70/BC-UB ngày 20/8/2002 của Ủy ban nhân dân phường 16, quận TB và Quyết định số 7626/QĐ-UB ngày 15/11/2001 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM cũng xác định bà NĐ_Chiếu là người sử dụng đất. Tuy nhiên, đến nay bà NĐ_Chiếu vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông BĐ_Trần Triều cho rằng ông có đăng ký theo Chỉ thị 299/TTg (Ông BĐ_Triều không trực tiếp sử dụng đất). Bà NĐ_Chiếu đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 1.153,1m2 đất cho bà.