cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

53/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 260
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

27-05-2013

Tháng 01/1999, bà LQ_Ly về Việt Nam, vợ chồng bà và bà LQ_Ly ra Ủy ban nhân dân phường TP làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nhưng vì bà LQ_Ly có quốc tịch nước ngoài nên không hoàn tất được thủ tục. Ngày 13/01/1999, bà LQ_Ly viết đơn trả lại vợ chồng bà diện tích đất đã mua đồng thời vợ chồng bà cũng trả lại bà LQ_Ly 08 chỉ vàng. Ngày 14/01/1999, Ủy ban nhân dân phường TP giải quyết công nhận diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của gia đình bà và năm 2000 vợ chồng bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông NĐ_Nguyễn Công Tính là chồng bà). Do đó, yêu cầu vợ chồng bà BĐ_Loan, ông BĐ_Long trả lại gia đình bà diện tích đất trên, bồi thường giá trị khai thác sử dụng diện tích đất này từ năm 2000 đến nay và tiền thuế đất mà bà đã nộp từ năm 2000 đến nay.


480/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2148
  • 137

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

27-11-2014

Tổng diện tích đất vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Vân là 10739m2. Lần chuyển nhượng thứ nhất 4.600m2, đất đã có sổ đỏ, phần đất này không tranh chấp. Lần nhận chuyển nhượng thứ 2 vào năm 2003, diện tích 6.139m2 với giá 60.000.000 đồng. Thời điểm sang nhượng đất bà Vân chưa có giấy chứng nhận QSD đất hai bên chỉ lập giấy tay nhưng đã giao tiền đầy đủ. Năm 2010, sau khi bà Vân được cấp giấy chứng nhận QSD đất, bà và bà Vân đã làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận QSD đất, bà được cấp 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 20/9/2010 (giấy thứ nhất thửa số 126, tờ bản đồ số 101, diện tích 3862m2, giấy thứ hai thửa số 370, tờ bản đồ số 10, diện tích 2277m2). Nhưng từ khi nhận chuyển nhượng đất của bà Vân đến nay, vợ chồng bà chưa được sử dụng đất do bị vợ chồng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân (con bà Vân) vẫn sử dụng. Bà đã yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân di dời nhà về phần đất 400m2 bà Vân chia cho để giao trả lại đất cho bà nhưng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân không đồng ý. Bà yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân trả lại cho bà 6.139m2 tại tổ 11, ấp Hội Tân, xã TH, theo giấy chứng nhận QSD đất bà được cấp năm 2010.


467/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 286
  • 10

Tranh chấp thừa kế

24-11-2014

Năm 1990 cụ Bài chết không để lại di chúc, toàn bộ tài sản của cụ Bài do cụ Mùi quản lý. Cuối năm 2001, cụ Mùi chết, tài sản để lại là 674m2 đất thổ cư tại tổ dân phố Hoa Lư, thị trấn HS, LT, tỉnh VP có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Mùi cấp năm 1998, hiện nay UBND thị trấn HS đang quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này. Trước khi chết, vào năm 1998 cụ Mùi có viết 03 bản di chúc để lại cho ông Khánh 154m2 (ông Khánh là con cụ Nguyễn Tiến là em trai cụ Mùi), ông BĐ_Hoàng Tú Ân và ông BĐ_Hoàng Minh Tứ mỗi người 260m2 (ông BĐ_Ân là con cụ Hoàng Đình Huề là anh trai cụ Hoàng Cao Bài; ông BĐ_Tứ là con cụ Hoàng Văn Huy là em trai cụ Hoàng Cao Bài); Ngày 14/10/2009 ông Khánh đã khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo di chúc, tại bản án phúc thẩm số 37/2010/DS-PT ngày 14/7/2010 Tòa án nhân dân tỉnh VP tuyên bố 03 bản di chúc là không hợp pháp. Hiện này toàn bộ tài sản của cụ Mùi do ông BĐ_Ân và ông BĐ_Tứ quản lý, ông BĐ_Ân đã xây 3 gian nhà, bếp, giếng, sân trên đất của cụ Mùi. Các nguyên đơn đề nghị Tòa án chi toàn bộ diện tích đất của cụ Mùi cho cụ NĐ_Sâm, cụ NĐ_Hào, cụ NĐ_Tiên, cụ NĐ_Tý thành 04 phần bằng nhau vì họ là những người được hưởng thừa kế còn lại duy nhất của cụ Mùi và đồng ý thanh toán bằng tiền toàn bộ những tài sản mà ông BĐ_Ân, ông BĐ_Tứ xây dựng trên đất của cụ Mùi.


452/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 488
  • 13

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

21-11-2014

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/6/2010 và trong quá trình tố tụng, đồng nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Thắng, bà NĐ_Đinh Thị Lan trình bày: Ông, bà khởi kiện yêu cầu chị BĐ_Đàm Thị Viên trả lại 11.742,4m2 đất và nhà ở tại thửa đất số 41 và 51 tờ bản đồ số 01 xã TĐ, thị xã ĐH, tỉnh QB. Nguồn gốc của phần đất này trước đây là đất rừng tái sinh thuộc quyền quản lý của UBND xã Bắc Lý; năm 1998 khi thành lập xã TĐ thì thuộc quyền quản lý của UBND xã TĐ; từ năm 1994 ông, bà cùng một số gia đình khác đã đăng ký xin UBND phường Bắc Lý để canh tác trên diện tích đất này, năm 2004 UBND thị xã ĐH (nay là thành phố ĐH) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông, bà. Năm 1998, vợ chồng ông, bà khởi công xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp hiện nay, quá trình làm nhà được làm nhiều lần, nhiều công đoạn và nhiều đoàn thợ khác nhau. Chị BĐ_Viên là vợ của anh Nguyễn Văn Nghị (con của ông, bà) nhưng không có đăng ký kết hôn, hiện chị BĐ_Viên và anh Nghị đã có 01 cháu gái là Nguyễn Thị Thảo (sinh năm 1997). Năm 2001 anh Nghị chết, sau đó vợ chồng ông tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà trên; đến năm 2003 ông, bà bán nhà cũ và ra ở với chị BĐ_Viên và cháu Thảo trong ngôi nhà nêu trên. Năm 2006, chị BĐ_Viên đi Miền Nam làm ăn, năm 2008 mới quay về. Do chị BĐ_Viên đòi đuổi ông, bà ra khỏi ngôi nhà nêu trên, nên ông, bà khởi kiện đề nghị công nhận quyền sở hữu nhà và đất nêu trên cho ông, bà.


411/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 588
  • 14

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

15-10-2014

Năm 1965, ông NĐ_Nguyễn Văn Nhiên kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, BĐ_Thứ, BĐ_Sang. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sang, BĐ_Nguyễn Xuân Thứ sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sang nói với ông cho anh BĐ_Sang mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sang thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sang lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sang đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sang và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sang, anh BĐ_Thứ phải trả lại nhà đất trên cho ông