09/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 4300
- 187
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Hồng Mừng trình bày: Ông NĐ_Mừng và BĐ_Công ty Cổ phần Bảo hiểm ABC (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty) có ký HĐLĐ không xác định thời hạn số 707/10310/HĐLĐ-ABC ngày 28/02/2010. Sau đó, ông NĐ_Mừng tiếp tục ký HĐLĐ không xác định thời hạn số 0195-19514/HĐLĐ-ABC ngày 24/01/2014, với chức vụ Trưởng phòng điều tra, mức lương là 15.850.000 đồng/tháng.
718/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 3973
- 245
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện ngày 16 tháng 9 năm 2014 và các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông NĐ_Phạm Ngọc Phương trình bày: Giữa ông và BĐ_Công ty TNHH A&A có ký hợp đồng lao động số DA118/3 ngày 01/01/2013 và phụ lục hợp đồng số DA.PLHĐLĐ số 118/3A ngày 01/01/2013, loại không xác định thời hạn, chức danh lái xe, mức lương thỏa thuận 6.077.348 đồng/tháng. Trước đó ông và Công ty đã ký kết các hợp đồng sau: - Hợp đồng lao động số DA-118 ngày 01/01/2010, thời gian thử việc từ ngày 01/01/2010 đến ngày 28/02/2010; Hợp đồng lao động số DA-118/1 ngày 01/3/2010, thời gian làm việc từ ngày 01/3/2010 đến ngày 31/12/2010; Hợp đồng lao động số DA-118/2 ngày 01/01/2011, thời gian làm việc từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2012 và Phụ lục hợp đồng lao động số DA-PLHĐLĐ-118/1 ngày 01/3/2012.
131/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 1121
- 43
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện ngày 02/4/2014 và bản tự khai lập ngày 07/05/2014, nguyên đơn trình bày: Ngày 23/07/2012, tôi ký hợp đồng lao động với BĐ_Công ty Phú Quý, thời gian thử việc 01 tháng. Ngày 01/09/2012, đôi bên ký hợp đồng lao động với thời hạn 01 năm từ ngày 01/09/2012 đến ngày 31/08/2013 số HĐLĐ 66 -1/2012/HĐLĐ. Ngày 15/03/2013, Chủ tịch công đoàn BĐ_Công ty cổ phần thương mại Phú Quý thông báo ngày 18/3/2013 tôi sẽ phải bàn giao công việc cho nhân sự mới. Tôi hỏi lý do thì Chủ tịch công đoàn trả lời đó là do quyết định của tổng giám đốc Nguyễn Thúy Quỳnh. Theo đúng yêu cầu của tổng giám đốc tôi đã bàn giao công việc từ ngày 18/3/2013 cho nhân sự mới, nội dung bàn giao có biên bản ký kết giữa hai bên.
5/2009/HNGĐ/ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 963
- 27
Trong đơn khởi kiện đề ngày 05/8/2008 và các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Lê Hoàng Phong trình bày: Anh và chị Phan Thị Thu Tâm đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 06/01/2006 tại UBND phường AP, Thị xã AK, GL, hôn nhân giữa anh và chị Tâm là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Sau vài tháng chung sống giữa anh và chị Tâm đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Tâm có những suy nghĩ và hành động lệch lạc, ghen tuông vô cớ đã xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của anh, ngoài ra chị Tâm còn có biểu hiện ngang ngược không nghe lời khuyên giải của chồng và gia đình chồng. Anh đã cố gắng khắc phục nhưng không được, đến tháng 6/2008 chị Tâm tự ý bế con bỏ nhà đi cho đến nay. Nay anh thấy không còn tình cảm gì với chị Tâm nữa nên anh yêu cầu Tòa giải quyết cho anh được ly hôn với chị Tâm.
88/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1835
- 64
Trong đơn khởi kiện ngày 20/6/2009 và văn bản ngày 10/8, 11/8, 10/9/2009 nguyên đơn NĐ_Cao Văn Chinh trình bày: Năm 1989 cha anh là ông Cao Văn Thành phát rẫy tại tục danh Rẫy Thả thuộc thôn Tân Thạnh, xã ÂT (Nay là TT, xã ATT) để trồng cây thuốc lá, sau trồng cây mì. Đến năm 1994 cho lại anh tiếp tục sử dụng, canh tác trồng cây mì, cây điều liên tục cho đến nay. Nhưng vợ chồng chị BĐ_Đặng Thị Hà và BĐ_Trần Văn Vinh đã tự ý kê khai, làm đơn đăng ký xin giao quyền sử dụng đất trồng rừng trên diện tích rẫy của gia đình anh. Việc làm của vợ chồng anh BĐ_Vinh, chị BĐ_Hà là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình anh, nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh BĐ_Vinh chị BĐ_Hà phải trả lại quyền sử dụng đất diện tích đất rẫy cho gia đình anh được đăng ký làm thủ tục xin giao quyền sử dụng.