cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

211/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3379
  • 129

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

29-06-2015
TAND cấp huyện

Qua giới thiệu ông NĐ_Đọc đã gặp bà BĐ_Nguyễn Thị Lệ Minh để thỏa thuận mua căn nhà số 139/1B Đường số 11, Khu phố 9, phường TT, quận TĐ, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của bà BĐ_Minh. Sau khi thống nhất mua bán căn nhà có diện tích 30.8 m2, quyền sử dụng đất 46 m2 với giá 300.000.000 đồng, ngày 15/12/2009 ông NĐ_Đọc và bà BĐ_Minh, ông BĐ_Thái (chồng bà BĐ_Minh) ký kết hợp đồng mua bán nhà ở tại Phòng Công chứng số 3, Thành phố HCM và ông NĐ_Đọc đã giao đủ tiền cho bà BĐ_Minh. Theo thoả thuận thì bên mua (ông NĐ_Đọc) có trách nhiệm đóng thuế và hoàn tất thủ tục đăng ký trước bạ sang tên đối với căn nhà.


210/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1584
  • 25

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-06-2015
TAND cấp huyện

Ngày 15/10/2011 Ông có cho Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vay 70.000.000 đồng để Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng có vốn làm ăn, được lập thành văn bản và Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng đã nhận đủ số tiền vay. Từ khi vay tiền cho đến nay Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng chưa trả tiền cho Ông, dù rằng Ông đã yêu cầu nhiều lần Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả tiền, nhưng Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vẫn cố tình trốn tránh, không trả tiền. Hiện nay, Ông đang phải điều trị bệnh hiểm nghèo, nên Ông làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả cho Ông số tiền vay là 70.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi.


180/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1928
  • 38

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-06-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 06 tháng 9 năm 2013 và tại phiên toà nguyên đơn ông NĐ_Cao Thanh Thiên có đại diện theo ủy quyền trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích 22,9 m2 thuộc một phần thửa 60 tờ bản đồ số 02 Bộ địa chính xã TB, huyện TĐ (theo tài liệu 299/TTg); trọn thửa 26, một phần thửa 25, 27 và một phần đường tờ bản đồ số 67 ( theo tài liệu BĐĐC đo năm 2003) phường BC là của ông BĐ_Đặng Công Khanh và bà LQ_Nguyễn Thị Bích sử dụng. Năm 1998 ông BĐ_Khanh bà LQ_Bích chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông ( bằng giấy tờ tay). Việc chuyển nhượng giữa đôi bên đã hoàn tất, vợ chồng ông sử dụng và kê khai đăng ký đóng thuế từ năm 1999 đến nay. Năm 2008 ông BĐ_Khanh, bà LQ_Bích tự ý trổ cửa lấn chiếm, nên xảy ra tranh chấp. Vì vậy ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, công nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông đối với phần đất nêu trên, buộc ông BĐ_Khanh và bà LQ_Bích giao trả đất lại cho vợ chồng ông sử dụng.


489/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2198
  • 58

Ly hôn

11-06-2015
TAND cấp huyện

Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn bà NĐ_Vũ Thị Hồng Doanh: bà NĐ_Doanh và ông BĐ_Đỗ Trọng Kiều tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức đám cưới, đăng ký kết hôn năm 2007 tại Ủy ban nhân dân phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN. Vợ chồng chung sống chỉ được thời gian ngắn, khoảng cuối năm 2007 đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến về tài chính. Mặt khác, ông BĐ_Kiều không quan tâm, lo lắng cho gia đình, hay say xỉn và đánh đâp bà. Cả bà và ông BĐ_Kiều đều đã nhiều lần nộp đơn xin ly hôn và được tòa hòa giải quay về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, chỉ chung sống với nhau được thời gian ngắn, vợ chồng lại gút mắc về tài chính, ông BĐ_Kiều vẫn chứng nào tật đó, thường xuyên đánh đập, bạo hành bà. Nay bà xác định tình cảm không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông BĐ_Kiều.


143/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1412
  • 32

Yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật

15-05-2015
TAND cấp huyện

Năm 2002 ông Bùi Văn Trọng chết, năm 2010 bà Lê Thị Ngọc Lan chết không để lại di chúc, bà BĐ_Mừng đã tự làm giả di chúc, kê khai di sản thừa kế bỏ sót tên của bà NĐ_Sáng và bà LQ_Xoan để chiếm đoạt tài sản của cha mẹ để lại. Nay bà NĐ_Sáng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Yêu cầu hủy bỏ di chúc của ông Trọng, bà Lan và yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản do cha mẹ bà để lại. Tài sản nhà, đất nói trên được chia làm 3 phần, bà NĐ_Sáng, bà BĐ_Mừng và bà LQ_Xoan mỗi người được một phần bằng nhau. Bà NĐ_Sáng xin nhận phần thừa kế của mình, phần nhà đất để ở.