87/2015/LĐ -ST Sơ thẩm Lao động
- 2072
- 68
Nguyên đơn trước đây là công nhân viên quốc phòng làm việc tại BĐ_Công ty Quốc Minh thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng từ tháng 3/1976. Tháng 12/2006 theo quyết định số 350/QĐ-TM của Tổng cục quốc phòng thì Nguyên đơn chuyển sang làm việc tại BĐ_Công ty Cổ phần Quốc Minh (Bị đơn), ký hợp đồng không xác định thời hạn từ tháng 7/2006. Sau đó hàng năm Bị đơn có ký lại các phụ lục điều chỉnh mức lương cho Nguyên đơn và mức lương điều chỉnh cũng là cơ sở để đóng Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, mức lương thực tế Bị đơn trả cho Nguyên đơn thấp hơn so với phụ lục hợp đồng đã ký. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau: -Buộc Bị đơn thanh toán tiền lương chênh lệch hàng tháng từ tháng 7/2006 đến tháng 08/2013 là 158.191.429 đồng. -Buộc Bị đơn thanh mức chênh lệch tiền làm ngoài giờ từ tháng 7/2006 đến tháng 08/2013 là 48.789.018 đồng. Tổng cộng 206.980.447 đồng. Thanh toán ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
64/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2228
- 99
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Ngày 08/7/2013, ông có kí đơn tập thể kiến nghị Công ty yêu cầu giải quyết một số vấn đề. Tuy nhiên ban lãnh đạo không giải quyết và có những phản hồi làm anh em công ty bức xúc, làm việc chểnh mảng. Từ ngày 08 đến ngày 12/7/2013, ông vẫn làm việc tại công trường (Bà Rịa- Vũng Tàu), ngày 12/7/2013 ông nhận được thông báo của công ty mời họp xét kỉ luật vào ngày 15/7/2013. Ngày 15/7/2013, ông đến công ty nhưng không chấp nhận họp vì không có mặt ông Nguyễn Tân Sơn là giám đốc công ty nên cuộc họp được dời vào sáng ngày 16/7/2013, ngày 16/7/2013 công ty buộc ông viết bản tường trình và sau đó ngày 31/7/2013, công ty tự lập biên bản họp xét kỉ luật gửi cho ông. Lí do nghỉ 05 ngày trong tháng không có lí do chính đáng, kích động đình công bất hợp pháp, chiếm giữ tài sản, thiết bị của công ty, không hoàn trả lại khi công ty yêu cầu.
18/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2593
- 131
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/5/2014 và các lời trình bày của đại diện nguyên đơn tại Tòa án: Ngày 07/10/1996, bà NĐ_Phụng làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Penkaly Việt Nam, đến ngày 30/8/2002, giữa bà NĐ_Phụng và BĐ_Công ty TNHH Penkaly Việt Nam có ký hợp đồng lao động B50 không xác định thời hạn và phụ lục của hợp đồng số B50 có hiệu lực từ ngày 01/9/2002; với công việc là Trưởng bộ phận dịch vụ khách hàng (Head of Customer Services); mức lương chính 7.000.000 đồng cùng các thỏa thuận về thời gian làm việc, nghỉ phép và đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Theo Quyết định số 841071-MI-10 từ ngày 20/4/2010, bà NĐ_Phụng giữ chức vụ giám đốc điều phối kinh doanh. Theo quyết định 841071JT-11 ngày 15/7/2011, bà NĐ_Phụng giữ chức vụ Trưởng phòng quản lý dự án thuộc nhánh Penkaly CropScience của BĐ_Công ty TNHH Penkaly Việt Nam kể từ ngày 18/7/2011, với mức lương từ tháng 4/2012 là 45.885.000 đồng.
04/2015/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 743
- 40
Đòi nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
BĐ_Công ty cổ phần xây dựng số 15 bắt đầu tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tại NĐ_Bảo hiểm xã hội quận TX, tp HN, tp HN từ tháng 10 năm 2012. Thời gian đầu Bị đơn trích nộp đóng bảo hiểm cho người lao động và thực hiện nghĩa vụ đầy đủ với nhà nước. Từ tháng 4/2013 đến nay Công ty không thực hiện việc đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định của nhà nước. Tính đến hết tháng 9/2014 còn nợ NĐ_Bảo hiểm xã hội quận TX, tp HN tổng số tiền là 9.187.596.039 đồng. Việc không nộp tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của Bị đơn đã kéo dài nhiều năm, NĐ_Bảo hiểm xã hội quận TX, tp HN đã thường xuyên đôn đốc yêu cầu thanh toán nhưng Bị đơn không trả số nợ cũ mà tiếp tục nợ mới và đưa ra khó khăn về kinh tế nên chưa có tiền trả. Nay, NĐ_Bảo hiểm xã hội quận TX, tp HN yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần xây dựng số 15 phải thanh toán ngay toàn bộ số nợ tính đến hết tháng 9/2014 là 9.187.596.039 đồng.
1189/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2136
- 72
Cha mẹ của ông Chung và bà Đào đều đã chết trước ông Chung, bà Đào. Ngoài 06 người con trên ông Chung và bà Đào không có con riêng, con nuôi nào khác. Ông NĐ_Xoan được biết mẹ ông NĐ_Xoan (bà Đào) đã ký Hợp đồng tặng cho nhà (số công chứng 952 ngày 12/3/1996 tại LQ_Phòng Công chứng Số 2) căn nhà 10/14 cho bà Hoàng Thị Xiêm. Ông NĐ_Xoan khởi kiện yêu cầu hủy một phần Hợp đồng tặng cho nhà giữa bà Nguyễn Thị Đào với bà Hoàng Thị Xiêm và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phần di sản của ông Hoàng Đình Chung, bà là đại diện nguyên đơn đề nghị chia thêm phần di sản của bà Nguyễn Thị Đào vì: Hợp đồng tặng cho nhà không đúng thủ tục, bà Nguyễn Thị Đào đã kê khai không đúng sự thật (không khai đầy đủ các đồng thừa kế của ông Chung – Theo Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ ngày 16/10/1992 của bà Nguyễn Thị Đào); Theo Điều 2 của Hợp đồng tặng cho thì bà Đào có cam kết căn nhà đem cho thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên A (tức bà Đào), không bị tranh chấp về quyền sở hữu. Tuy nhiên toàn bộ căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của một mình bà Đào mà còn thuộc sở hữu của những đồng thừa kế của ông Chung.