24/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 789
- 26
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT, huyện TA, tỉnh BD. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhưng để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đứng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên.
09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2111
- 31
Khi cụ Trương Công Nghế và cụ Đỗ Thị Hiển còn sống đã cho bố anh là ông Trương Công Chế nhà cấp 4 trên diện tích 94m2. Năm 1993 ông Chế chết, cụ Nghế, cụ Hiển nói với mọi người là cho anh nhà đất này. Sau khi cụ Nghế, cụ Hiển mất, anh chưa kịp làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên ngày 26/11/2001 các thừa kế của cụ Nghế, cụ Hiển là bà BĐ_Trương Thị My, ông Trương Quang Tiến, bà BĐ_Trương Thị Hà, bà Trương Thị Hòa đã họp để phân chia đất thổ cư do cụ Nghế, cụ Hiển đê lại theo nguyện vọng của các cụ là nhà đất trên diện tích 94m2 thì giao cho anh NĐ_Trương Quang Khang, nhà đất trên diện tích 147,6m2 thì giao cho ông Trương Quang Tiến.
215/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1403
- 24
Yêu cầu xác nhận quyền thừa kế
Cụ Nghế chết năm 1994 Cụ Hiển chết năm 1993. Khi chết hai cụ không để lại di chúc. Di sản để lại gồm: - Một căn nhà cấp 3, xây năm 1988 diện tích 69,6m2 và công trình phụ tọa lạc trên thửa đất 147,6m2 tại thửa 106, tờ bản đồ số 41 hiện do chị LQ_Dương Thị Soài (vợ của ông Trương Quang Tiến quản lý sử dụng). - Một căn nhà cấp 4, xây năm 1990 diện tích 16m2 tọa lạc trên thửa đất 123,6m2 tại thửa 96 tờ bản đồ số 41 do anh NĐ_Trương Quang Khôi quản lý sử dụng.
24/2007/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 432
- 5
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT, huyện TA, tỉnh BD. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm 1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhung để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đúng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên. Năm 1987 ông cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn LT và cụ Hai Hoanh cũng chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, nên toàn bộ nhà và đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT được giao cho ông BĐ_Nguyễn Văn Trung (là con cụ Hai Hoanh và là em một của ông) quản lý, sử dụng đến nay. Ngày 08/12/1988 cụ Hai Hoanh chết nhưng không để lại di chúc.
23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 397
- 2
Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.