28/2011/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1501
- 20
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Thành trình bày: Cụ Lữ Long Giao và cụ Võ Thị Diệp có hai người con là bà Lữ Thị Đông và bà Lữ Ngọc Anh. Hai cụ có căn nhà số 136 (nhà lầu, dạng biệt thự) đường Trần Phú, thị xã Trà Vinh và 3 căn nhà phụ phía sau (136/A5, 136/A6 và 136/A7). Năm 1957, cụ Võ Thị Diệp chết, không để lại di chúc. Năm 1963, cụ Lữ Long Giao cho ông Lữ Trung Ngươn (con nuôi của cụ Lữ Trung Toàn; cụ Toàn là anh ruột của cụ Giao) ở tạm nhà số 136/A7 để lánh nạn vì chiến tranh. Sau giải phóng Miền Nam (năm 1975), bà Đông cho Ban Vận động hồi hương của tỉnh Trà Vinh mượn căn biệt thự làm trụ sở; sau đó cơ quan này giải thể, bà Đông lại cho ông Đỗ Văn Tự (cán bộ Ban Vận động hồi hương) ở và trông coi căn biệt thự này. Năm 1979, cụ Lữ Long Giao lập di chúc cho con gái là bà Lữ Ngọc Anh (Quốc tịch Pháp) thừa kế nhà đất nêu trên. Năm 1980 cụ Giao chết.
91/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 323
- 7
Cố Nguyễn Văn Lộc có hai vợ, vợ cả là cố Nguyễn Thị Ngọ, vợ hai là cố Quan Thị Thìu; Cố Lộc và cố Ngọ có ba người con chung là cụ Nguyễn Tộ, cụ Nguyễn Thị Toán, cụ Nguyễn Thị Tính. Cố Lộc và cụ Thìu có 01 người con chung là cụ NĐ_Nguyễn Văn Lê. Cố Lộc chết năm 1942, cố Ngọ chết năm 1917, cố Thìu chết năm 1960 đều không để lại di chúc. Cụ Tộ chết năm 1988, có vợ là cụ Bính chết năm 1952, có 06 người con là các ông bà BĐ_Nguyễn Quân, LQ_Nguyễn Tín, LQ_NK, LQ_Nguyễn Thị Khánh Vy, Nguyễn Thị Giao Thảo (chết năm 1982) có chồng là ông LQ_Trần Chu Minh có 6 người con là các anh chị LQ_Trần Thị Thiên, LQ_Trần Thị Bốn, LQ_Trần Chu Định, LQ_Trần Chu Thuần, LQ_Trần Chu Mạnh (tức Hải); Nguyễn Thị Hiền (chết năm 1962) có chồng là ông LQ_Đinh Quang Viên và có 04 người con là các anh chị LQ_Đinh Minh Hiếu, LQ_Đinh Quang Hào, LQ_Đinh Bích Hằng và Đinh Thị Ngọc Bích.
25/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1491
- 39
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Theo đơn khởi kiện ngày 06/7/2002 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Đỗ Thị Lan trình bày: Bà là công nhân xí nghiệp dịch vụ đời sống, Công ty Gang thép TN, năm 1991 gia đình bà được Công ty thanh lý cho 02 gian nhà ở cấp 4 của Xí nghiệp trên diện tích đất hơn 200m2 và sử dụng từ đó đến năm 2002. Do vợ chồng bà có mâu thuẫn nên bà có viết giấy ủy quyền cho chồng là ông Bùi Văn Cáp sử dụng trông coi và trong giấy không có ủy quyền bán nhà. Sau đó bà cùng hai con về bên bố mẹ đẻ bà ở. Lợi dụng lúc bà đi vắng ông Cáp đã lấy giấy tờ của bà tự ý bán 02 gian nhà thanh lý cho vợ chồng ông BĐ_Sính và bà Nguyện, sau đó ông Cáp bỏ về quê sinh sống và chết ngày 31/01/2003. Nay bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Sính và bà LQ_Vũ phải trả lại 02 gian nhà và không nhất trí trả số tiền mà ông Cáp đã nhận của vợ chồng ông BĐ_Sính, vì bà cho rằng ông Cáp nhận tiền thì phải tự chịu trách nhiệm.
08/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 393
- 12
Ngày 01/12/2000, chị NĐ_Võ Thị Như có “Đơn yêu cầu xét xử về quyền sử dụng đất” và bà NĐ_Võ Thị Bình (ủy quyền cho chị NĐ_Như) yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Điệp trả lại diện tích đất mà bà đang sử dụng và nêu chị là người được cụ Luông ủy quyền và cho rằng diện tích đất có tranh chấp là của cụ Luông, còn bà BĐ_Nhiên chỉ là người ở nhờ.
130/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 533
- 25
Khoảng năm 1980 vợ chồng ông BĐ_Duy, bà BĐ_Na đến thuê gara của vợ chồng bà để ở tạm, việc thuê nhà chỉ thỏa thuận miệng. Mấy năm đầu vợ chồng ông BĐ_Duy có trả tiền thuê nhà, trả bao nhiêu bà không nhớ rõ. Những năm sau vợ chồng ông BĐ_Duy không trả tiền thuê nhà nữa và gia đình bà cũng yêu cầu lấy lại nhà nhưng không được. Gia đình bà vẫn đóng thuế sử dụng đất đến năm 1995 thì UBND phường 2 tách phần diện tích 105m2 mà ông BĐ_Duy sử dụng để ông BĐ_Duy đóng thuế, gia đình bà có phản đối thì được trả lời ai sử dụng thì người đó đóng thuế sử dụng. Còn việc ông BĐ_Duy xuất trình giấy chuyển nhượng nhà đất lập ngày 27/09/1977 có chữ ký của bà và ông Lan là hoàn toàn giả mạo vì bà không ký vào giấy này. Do đó bà yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng đất lập ngày 27/09/1977.