182/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1365
- 150
Nguyên đơn – Bà NĐ_Bùi Thị Dũng trình bày: Bà và ông BĐ_Nguyễn Văn Đương được mẹ chồng bà NĐ_Dũng để lại cho phần diện tích 2000m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03533 QSDĐ/25.7.2000 ngày 25/7/2000 do Ủy ban nhân dân huyện HM cấp cho ông BĐ_Nguyễn Văn Đương, là tài sản chung. Đến năm 2004, bà NĐ_Dũng và ông BĐ_Đương thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 167/QĐ.TTLH ngày 13/12/2004, về phần tài sản chung vợ chồng thì vợ chồng bà NĐ_Dũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Năm 2002, ông BĐ_Đương tự bán phần đất có diện tích khoảng 886m2 cho ông Bùi Thanh Danh với giá 150.000.000 đồng và có đưa bà NĐ_Dũng 100.000.000 đồng để lo cho các con. Đến năm 2003, ông BĐ_Đương tự mình tiếp tục bán 40m2, không chia tiền cho bà NĐ_Dũng. Đến năm 2004, ông BĐ_Đương lại tự mình bán 560m2 đất và không chia tiền cho bà NĐ_Dũng.
99/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1499
- 86
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Kim trình bày: Năm 2011 bà có nhờ bà LQ_Phạm Thị Sinh – địa chỉ: 38A tổ 5, đường 102, khu phố 7, phường TNP A, Quận X, Tp.HCM đi cầm giấy tờ đất để vay số tiền là 10.000.000 đồng, thời hạn vay 2 tháng. Bà đã giao bản chính giấy tờ đất số BB474360 ngày 05/7/2010 (số vào sổ cấp GCN: CH00417 do Ủy ban nhân dân Quận X cấp cho hộ bà NĐ_Nguyễn Thị Kim) cho bà LQ_Sinh và bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 10.000.000 đồng. Việc giao nhận tiền và giao bản chính giấy tờ đất giữa bà và bà LQ_Sinh đều không lập giấy tờ. Bà LQ_Sinh đem giấy tờ đất của bà đi cầm cho ai bà không rõ nhưng sau đó bà LQ_Sinh nói với bà đi ra phòng công chứng ký hợp đồng cho bà LQ_Sinh mượn giấy tờ đất. Khi ký hợp đồng tại phòng công chứng, bà không biết chữ nên không đọc được và không được nghe ai đọc nội dung hợp đồng nhưng do tin bà LQ_Sinh nên bà ký vào hợp đồng. Khi ký xong thì người đi cùng bà LQ_Sinh đưa cho bà số tiền 2.900.000 đồng nói cho để bà làm vốn mua ve chai. Đến tháng 8/2011 có người xuống nhà bà gặp chồng và các con bà yêu cầu giao đất và đưa hợp đồng ủy quyền công chứng ra thì bà mới biết bị lừa dối ký vào hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Lê Thị Hoa.
551/2015/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1587
- 46
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
NĐ_Tổng công ty Điện ABC khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lê Văn Kiên bồi thường thiệt hại do vi phạm sử dụng điện, truy thu số tiền do sử dụng điện không có hợp đồng mua bán điện là 37.173.648 đồng (ba mươi bảy triệu một trăm bảy mươi ba nghìn sáu trăm bốn mươi tám đồng) theo bảng chiết tính điện năng bồi thường - tính toán tiền bồi thường, tiền phạt do vi phạm sử dụng điện số 83/PCBC-QLKH ngày 04/3/2013 mà Công ty điện lực BC đã thông báo cho ông BĐ_Lê Văn Kiên. Yêu cầu thực hiện bồi thường ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật
75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 503
- 7
Theo bằng khoán điền thổ (tiếng Pháp), các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thì nhà đất tranh chấp tại Đường Hàng Lọng số 77, Bằng khoán điền thổ số 293, ĐK, HN, nay là số 75-77 LD, phường CN, HK, HN có nguồn gốc là của cố Trần Thị Bàn đứng tên mua năm 1941. Sau đó, cố Bàn cho cháu ngoại là cụ NĐ_Trần Thị Nga toàn bộ nhà đất đã mua theo chúc thư ngày 15/7/1941. Năm 1944, cụ NĐ_Nga kết hôn với cụ Phạm Ngọc Yến và về ở tại nhà đất này. Năm 1946, cụ NĐ_Nga và cụ Yến đã sang tên trên bằng khoán điền thổ. Năm 2000, cụ Yến chết không để lại di chúc. Năm 2003, cụ NĐ_Nga được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 120m2, diện tích đất 253m2.
113/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 301
- 7
Theo đơn khởi kiện và lời khai của các nguyên đơn thì nguồn gốc diện tích đất 45.000m2 tọa lạc tại ấp Quyền Thiện, xã BBĐ, huyện TB là của cụ Phạm Văn Bình (ông ngoại của bà NĐ_Thùy, ông NĐ_Thuận và Bà BĐ_Sơn) khai phá từ thời Pháp thuộc nhưng đã bỏ hoang. Đến năm 1990 do không có đất sản xuất nên bà NĐ_Thùy, ông NĐ_Thuận làm đơn xin nhận lại phần đất trên để quản lý sản xuất và đã được hội đồng cấp đất cho nhận lại toàn bộ phần đất nói trên. Năm 1993 ông NĐ_Thuận, bà NĐ_Thùy cho vợ chồng ông BĐ_Tình, bà BĐ_Sơn mượn để sản xuất.