01/2015/HC-ST: Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không ban hành quyết định bồi thường bổ sung Sơ thẩm Hành chính
- 716
- 13
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không ban hành quyết định bồi thường bổ sung
Nội dung vụ kiện Người khởi kiện đã nêu rõ trong đơn khởi kiện và bản khai tại Tòa ngày 17/11/2014, nay yêu cầu Tòa án: 1. Hủy một phần quyết định 2418/QĐ-UBND ngày 01/04/2011 của Ủy ban nhân dân Quận X về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất, yêu cầu Ủy ban nhân dân Quận X ra quyết định bồi thường bổ sung với số tiền là 6.018.138.480 đồng do Ủy ban nhân dân Quận X chi thiếu cho gia đình ông NĐ_Đặng. 2. Buộc Ủy ban nhân dân Quận X chi trả tiền tạm cư cho gia đình ông NĐ_Đặng mỗi tháng 10.000.000 đồng tính từ ngày 01/04/2011 cho đến khi ra quyết định số 221/QĐ-UBND ngày 27/3/2013, tổng cộng 24 tháng, tương đương 240.000.000 đồng. 3. Yêu cầu Tòa án trưng cầu Cơ quan kiểm toán Nhà nước kiểm toán số liệu giữa gia đình ông NĐ_Đặng và Ủy ban nhân dân Quận X để thấy rõ sự không phù hợp về giá trị bồi thường.
08/2014/HC-GĐT: Khởi kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất Giám đốc thẩm Hành chính
- 2135
- 59
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Ngày 07-4-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tổng thể về bồi thuờng, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, có nội dung: “Phê duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long: Tổng diện tích đất dự kiến thu hồi: 122.909m2 Tổng giá trị bồi thường dự kiến: 7.342.730.000đ”.
23/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm Sơ thẩm Hành chính
- 1109
- 44
Khiếu kiện quyết định hành chính về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra
Ngày 16/12/2013, ông NĐ_Bùi Tiến Đạt nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu UBND quận TB thu hồi Quyết định số 51/QĐ-KPHQ ngày 24/02/2012. Ngày 14/4/2015, ông NĐ_Bùi Tiến Đạt bổ sung đơn khởi kiện về việc thay đổi người bị kiện, Yêu cầu Chủ tịch UBND quận TB thu hồi Quyết định số 51/QĐ-KPHQ ngày 24/02/2012 và Quyết định 628/QĐ-KPHQ ngày 22/9/2014 của BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận TB. Lý do: Phần căn hộ 002 +102, tầng 1, 2 chung cư số 10 đường DT, phường 8, quận TB (số cũ 56/7 TKH) và phần diện tích 29.64m2 ô thông thoáng cầu thang tầng 1 + tầng 2 (3,80m x 3,90m x 2) là có từ trước năm 1975, căn nhà này không phải là chung cư theo Quyết định 244/QĐUB Thành phố ngày 28/10/1981, mà là dạng nhà cải tạo cho thuê của tư sản chế độ cũ. Ủy ban Quân quản tiếp nhận và giao cho Phân viện thiết kế công trình – BLN và đơn vị này đã phân cho cán bộ, nhân viên của Phân viện sử dụng để ở. Năm 1978 đơn vị này giải thể, ông NĐ_Đạt đã sang nhượng lại của những người khác 03 lần tổng cộng là 08 cây vàng. Gia đình ông đã sử dụng liên tục đến năm 2005 thì gia đình ông kí Hợp đồng thuê nhà với công ty Dịch vụ giao thông đô thị quận TB và đóng đủ tiền toàn bộ diện tích căn hộ được phân cùng toàn bộ diện tích sang nhượng từ năm 1979 đến năm 2006 là 101m2.
19/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất Sơ thẩm Hành chính
- 1001
- 17
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất
Ngày 02 tháng 8 năm 2013, bà NĐ_Nguyễn Thị Phú có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Quận X, yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 1029/QĐ-UBND ngày 14 tháng 11 năm 2012 của BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X vì cho rằng quyết định này không đúng pháp luật. Theo bà NĐ_Phú: Bà đã được BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00743/QSDĐ/Q12/1999 ngày 18 tháng 5 năm 1999, diện tích 9.008m2, thuộc các thửa 271, 280, 281, 282, 283, 284, tờ bản đồ số 11, tại phường TTH, Quận X. Từ thời điểm bà được cấp giấy chứng nhận, bà chưa bị cơ quan nhà nước xử lý vi phạm hành chính về đất đai. Tuy nhiên, ngày 14 tháng 11 năm 2012, Ủy ban nhân dân Quận X ra Quyết định số 1029/QĐ-UBND, thu hồi diện tích đất 1.271m2 trong giấy chứng nhận 00743/QSDĐ/Q12/1999 ngày 18 tháng 5 năm 1999 vì cho rằng bà không thực sử dụng đất là không đúng pháp luật. Sau khi nhận quyết định này, bà có khiếu nại và sau đó ngày 05 tháng 7 năm 2013, Ủy ban nhân dân Quận X có Quyết định số 27/QĐ-UBND bác khiếu nại của bà. Tại phiên toà, bà NĐ_Nguyễn Thị Phú vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đó là yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 1029/QĐ-UBND ngày 14 tháng 11 năm 2012 của BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X.
17/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 683
- 11
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 04 tháng 7 năm 2011, bà NĐ_Tăng Thị Lệ Thư có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Quận X, yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010 vì cho rằng quyết định này tuyên thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003 của bà là không đúng. Đây là phần đất bà Huỳnh Thị Ngọc được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003, diện tích đất ở được công nhận là 1.512,7m2. Sau đó, bà Ngọc chuyển nhượng cho bà NĐ_Thư theo hợp đồng số 022644/HĐ-MBN ngày 18 tháng 7 năm 2003 và bà NĐ_Thư đã đăng ký thay đổi chủ sử dụng. Đồng thời, bà NĐ_Thư cũng yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 2009/QĐ-UBND-BT ngày 01 tháng 10 năm 2010 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi thu hồi đất, khi tính lại diện tích đất bồi thường trên diện tích đất đã thu hồi theo Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010. Tòa án nhân dân Quận X đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Thư bằng vụ án hành chính thụ lý số 18/2012/TLST-HC ngày 20 tháng 6 năm 2012.