cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

393/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 253
  • 20

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-03-2016
TAND cấp tỉnh

Ngày 01/02/2011, bà BĐ_Nguyễn Thu Nga có vay của bà số tiền là 1.100.000.000đồng, không có thời hạn, khi nào lấy tiền phải báo trước 02 tháng. Bà BĐ_Nga có làm biên nhận mượn tiền, trong biên nhận không ghi lãi suất. Bà BĐ_Nga trả lãi được 08 tháng thì ngưng trả. Ngày 25/6/2013, bà BĐ_Nga xác nhận bằng giấy tay tổng số tiền nợ gốc và lãi còn thiếu là 1.200.000.000đồng gồm nợ gốc là 1.100.000.000đồng và tiền lãi là 100.000.000đồng, hẹn cuối tháng 9/2013 sẽ trả trước 500.000.000đồng, còn lại sẽ trả vào cuối tháng 3/2014. Ngày 11/11/2013, bà BĐ_Nga trả 500.000.000đồng. Từ đó cho đến nay, bà BĐ_Nga không thanh toán số tiền còn lại cho bà. Vì vậy, bà đã làm đơn khiếu nại đến Công an phường Cầu Kho, Quận X, Thành phố HCM. Tại Công văn số 243/TB-CAQ1 ngày 05/02/2015 của Công an Quận X, Thành phố HCM thông báo kết quả xác minh gửi đến bà


209/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 977
  • 22

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

01-02-2016
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 18/7/2014, các bản khai cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Sơn Hòa trình bày: Ông là con trai của bà Nguyễn Thị Hồng (đã chết ngày 18/3/2014), cha là ông Nguyễn Văn Viễn (đã chết ngày 05/01/2002), ông bà nội, ngoại của ông mất đã lâu hiện không còn ai. Bà Hồng và ông Viễn sinh được 03 người con gồm bà LQ_Nguyễn Thị Thanh Hà, bà LQ_Nguyễn Thị Tuyết Ngân và ông. Ngoài ra mẹ ông không có con riêng nào khác. Khi còn sống, mẹ ông có cho ông BĐ_Nguyễn Huỳnh Tú vay số tiền là 300.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền không có biện pháp bảo đảm được ký kết giữa bà Hồng và ông BĐ_Tú vào ngày 17/7/2013, thời hạn vay theo hợp đồng là 12 tháng kể từ ngày 17/7/2013 đến hết 17/7/2014, lãi suất là 10,2%/năm, trả lãi theo quý.


182/2016/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1367
  • 150

Tranh chấp tài sản sau ly hôn

26-01-2016
TAND cấp huyện

Nguyên đơn – Bà NĐ_Bùi Thị Dũng trình bày: Bà và ông BĐ_Nguyễn Văn Đương được mẹ chồng bà NĐ_Dũng để lại cho phần diện tích 2000m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03533 QSDĐ/25.7.2000 ngày 25/7/2000 do Ủy ban nhân dân huyện HM cấp cho ông BĐ_Nguyễn Văn Đương, là tài sản chung. Đến năm 2004, bà NĐ_Dũng và ông BĐ_Đương thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 167/QĐ.TTLH ngày 13/12/2004, về phần tài sản chung vợ chồng thì vợ chồng bà NĐ_Dũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Năm 2002, ông BĐ_Đương tự bán phần đất có diện tích khoảng 886m2 cho ông Bùi Thanh Danh với giá 150.000.000 đồng và có đưa bà NĐ_Dũng 100.000.000 đồng để lo cho các con. Đến năm 2003, ông BĐ_Đương tự mình tiếp tục bán 40m2, không chia tiền cho bà NĐ_Dũng. Đến năm 2004, ông BĐ_Đương lại tự mình bán 560m2 đất và không chia tiền cho bà NĐ_Dũng.


58/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3136
  • 140

Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

11-01-2016
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Đăng Đăng trình bày: Ngày 03/11/2009, ông có thỏa thuận với ông BĐ_Trịnh Văn Tuấn để mua căn nhà thuộc một phần thửa 166, tờ bản đồ 31, tọa lạc tại khu phố 4, Phường TCH, Quận X, thành phố HCM với giá 1.740.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, ông và ông BĐ_Tuấn đã lập tờ hợp đồng đặt cọc sang nhượng nhà đất với nội dung: Ngày 03/11/2009 ông NĐ_Đăng đặt cọc 100.000.000 đồng, hẹn ngày 04/11/2009, ông sẽ đưa tiếp 1.300.000.000 đồng. Số tiền còn lại sẽ giao sau 30 ngày khi hợp đồng được công chứng theo quy định pháp luật.


429/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1797
  • 40

Ly hôn

06-05-2016
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn – bà NĐ_Nguyễn Thị Bông trình bày: Bà và ông BĐ_Trần Ngọc Diên tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường X, Quận Y, Thành phố HCM và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 011/KH, quyển số 01/91 ngày 15/3/1991. Vài tháng sau khi kết hôn, ông BĐ_Diên trở về Hoa Kỳ. Bà và ông BĐ_Diên vẫn giữ liên lạc được một năm thì không còn liên lạc cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông BĐ_Diên để ổn định cuộc sống. Hiện bà không còn giữ bản chính Giấy chứng nhận kết hôn do đã thất lạc, bà chỉ nộp cho Tòa án bản sao có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.