260/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2057
- 48
Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2002 của ông NĐ_Trần Văn Ngưng yêu cầu bà BĐ_Đỗ Thị Thiên cùng gia đình phải trả cho ông căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, Thành phố HCM. Tháng 3/2006 ông NĐ_Trần Văn Ngưng chết những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của NĐ_Ngưng là vợ bà Nguyễn Thị Muôn và các con là các ông bà Trần Thị Xuân Mai, Trần Thị Thu Cúc, Trần Thị Anh Đào, Trần Thị Kim Phượng, Trần Thiện Minh Tâm có bà Trần Thị Xuân Mai là đại diện ủy quyền. Bà Trần Thị Xuân có các lời khai bổ sung như sau: Nguồn gốc căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, TP.HCM của ông bà nội chúng tôi là ông Trần Văn Bối (chết 1961) và bà Trần Thị Đức (chết 1999), để lại cho cha của bà là ông NĐ_Trần Văn Ngưng (chết năm 2006). Căn nhà nằm trong bằng khoán 616 tờ số 2 thuộc thửa 60 được chiết ra từ bằng khoán 167 lập bộ vào ngày 23/5/1934 và từ đó đến ngày 30/4/1975 bằng khoán 616 không thay đổi.
02/2014/LĐ-ST: Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ Sơ thẩm Lao động
- 40799
- 223
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Vào ngày 31/01/2013, BĐ_Công ty Sân San đã ban hành quyết định thôi việc số QĐTV/2013-01-02 (“Quyết Định Thôi Việc”) để chấm dứt Hợp đồng lao động và cho bà NĐ_Thắm thôi việc kể từ ngày 01/02/2013 theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Bộ Luật Lao động. Theo đó, bà NĐ_Thắm bị buộc thôi việc và sẽ được BĐ_Công ty Sân San hỗ trợ số tiền là 144.141.000 đồng. Ngoài ra, BĐ_Công ty Sân San cũng sẽ hoàn tất các thủ tục về bảo hiểm theo quy định sau khi nhận sổ bảo hiểm xã hội từ bà NĐ_Thắm. Bà NĐ_Thắm không đồng ý nên đã nhiều lần gửi thư, tham gia vào các buổi hòa giải tại trụ sở của BĐ_Công ty Sân San cũng như tiến hành hòa giải cơ sở tại Liên đoàn lao động Quận X nhưng không đạt được kết quả.
30/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 496
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2012, các bản tự khai và các biên bản đối thoại tại Tòa án người khởi kiện ông NĐ_Phan Văn Thà trình bày: căn nhà và đất số 304/40B tổ 21 khu phố 2, phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM do ông và bà LQ_Huỳnh Thị Thước (vợ ông) là chủ sử dụng, bị giải tỏa thuộc dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm theo quyết định thu hồi và giao đất số 1997/QĐ-UB ngày 10/5/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố HCM. Ngày 12/11/2009, Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 15395/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với gia đình ông với tổng số tiền là 1.257.855.100 đồng. Về tái định cư: được bố trí nền đất hoặc căn hộ chung cư theo giá tái định cư với diện tích tiêu chuẩn 200m². Không đồng ý với nội dung quyết định nói trên, ông đã khiếu nại đến BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X. Ngày 05/12/2011, Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 15683/QĐ – UBND – TTr về giải quyết khiếu nại của ông với nội dung: “Giữ nguyên Quyết định số 15395/QĐ-UBND ngày 12/11/2009 của Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X”.
22/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 343
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Người khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ có bà LQ_Nguyễn Thị Minh Phượng đại diện trình bày: bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ là chủ sử dụng căn nhà số 128- Ven Sông- Tổ 23- Ấp Cây Bàng 2- Phường TT- Quận X và 68,11 m2 đất mà căn nhà tọa lạc. Nhà đất của bà NĐ_Thơ nằm trong khu quy hoạch giải tỏa khu đô thị mới TT, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 về việc bồi thường tái định cư, theo nội dung của quyết định, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường 57,27 m2, tức là nếu chọn tái định cư thì được bố trí căn hộ chung cư có diện tích 57,27 m2 và 203.944.700 đồng. Vì bà NĐ_Thơ không nhận tái định cư nên BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 4834/QĐ-UBND ngày 15 tháng 4 năm 2011 có nội dung điều chỉnh Điều 1 của quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 có nội dung bà NĐ_Thơ không nhận suất tái định cư mà nhận tiền cho nên bà NĐ_Thơ được đền bù là 1.127.264.700 đồng, còn lại 10,84 m2 thì không bồi thường với lý do là hẻm.
11/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 941
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp. Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp.