239/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2768
- 72
Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Tại đơn khởi kiện, khởi kiện bổ sung, bản khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà NĐ_Đặng Thị Vũ Luy trình bày: Năm 1989 bà mua thửa đất toạ lạc tại địa chỉ 753 (cũng là 753A) ấp ADD, xã AP, huyện TĐ từ ông Huỳnh Văn Hàm, bà Nguyễn Ngọc Tốt và giao cho con trai là ông LQ_Đào Duy Linh đứng ra giao dịch. Thửa đất rộng 1500m2 bà NĐ_Luy chia làm 2 phần, nửa lớn bà NĐ_Luy giao cho ông LQ_Linh quản lý, nửa nhỏ bà NĐ_Luy tự bỏ tiền ra xây nhà số 50 (số cũ là 720G) NQH, phường TĐ, Quận X, Thành phố HCM nhưng nhờ vợ chồng con gái là Đào Ngọc Ánh, con rể là Chung Văn Đông đứng ra xin phép xây dựng và đăng ký quyền sở hữu nhà.
211/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3427
- 129
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Qua giới thiệu ông NĐ_Đọc đã gặp bà BĐ_Nguyễn Thị Lệ Minh để thỏa thuận mua căn nhà số 139/1B Đường số 11, Khu phố 9, phường TT, quận TĐ, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của bà BĐ_Minh. Sau khi thống nhất mua bán căn nhà có diện tích 30.8 m2, quyền sử dụng đất 46 m2 với giá 300.000.000 đồng, ngày 15/12/2009 ông NĐ_Đọc và bà BĐ_Minh, ông BĐ_Thái (chồng bà BĐ_Minh) ký kết hợp đồng mua bán nhà ở tại Phòng Công chứng số 3, Thành phố HCM và ông NĐ_Đọc đã giao đủ tiền cho bà BĐ_Minh. Theo thoả thuận thì bên mua (ông NĐ_Đọc) có trách nhiệm đóng thuế và hoàn tất thủ tục đăng ký trước bạ sang tên đối với căn nhà.
210/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1604
- 25
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 15/10/2011 Ông có cho Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vay 70.000.000 đồng để Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng có vốn làm ăn, được lập thành văn bản và Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng đã nhận đủ số tiền vay. Từ khi vay tiền cho đến nay Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng chưa trả tiền cho Ông, dù rằng Ông đã yêu cầu nhiều lần Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả tiền, nhưng Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vẫn cố tình trốn tránh, không trả tiền. Hiện nay, Ông đang phải điều trị bệnh hiểm nghèo, nên Ông làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả cho Ông số tiền vay là 70.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi.
180/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1967
- 38
Theo đơn khởi kiện ngày 06 tháng 9 năm 2013 và tại phiên toà nguyên đơn ông NĐ_Cao Thanh Thiên có đại diện theo ủy quyền trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích 22,9 m2 thuộc một phần thửa 60 tờ bản đồ số 02 Bộ địa chính xã TB, huyện TĐ (theo tài liệu 299/TTg); trọn thửa 26, một phần thửa 25, 27 và một phần đường tờ bản đồ số 67 ( theo tài liệu BĐĐC đo năm 2003) phường BC là của ông BĐ_Đặng Công Khanh và bà LQ_Nguyễn Thị Bích sử dụng. Năm 1998 ông BĐ_Khanh bà LQ_Bích chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông ( bằng giấy tờ tay). Việc chuyển nhượng giữa đôi bên đã hoàn tất, vợ chồng ông sử dụng và kê khai đăng ký đóng thuế từ năm 1999 đến nay. Năm 2008 ông BĐ_Khanh, bà LQ_Bích tự ý trổ cửa lấn chiếm, nên xảy ra tranh chấp. Vì vậy ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, công nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông đối với phần đất nêu trên, buộc ông BĐ_Khanh và bà LQ_Bích giao trả đất lại cho vợ chồng ông sử dụng.
143/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1426
- 32
Yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật
Năm 2002 ông Bùi Văn Trọng chết, năm 2010 bà Lê Thị Ngọc Lan chết không để lại di chúc, bà BĐ_Mừng đã tự làm giả di chúc, kê khai di sản thừa kế bỏ sót tên của bà NĐ_Sáng và bà LQ_Xoan để chiếm đoạt tài sản của cha mẹ để lại. Nay bà NĐ_Sáng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Yêu cầu hủy bỏ di chúc của ông Trọng, bà Lan và yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản do cha mẹ bà để lại. Tài sản nhà, đất nói trên được chia làm 3 phần, bà NĐ_Sáng, bà BĐ_Mừng và bà LQ_Xoan mỗi người được một phần bằng nhau. Bà NĐ_Sáng xin nhận phần thừa kế của mình, phần nhà đất để ở.