cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 519
  • 8

Tranh chấp thừa kế

10-03-2010

Ông Nam và bà Kim Anh tạo lập được căn nhà số 215A NTL, quận BT, thành phố HCM. Bà Kim Anh chết ngày 01/3/1993 không để lại di chúc. Sau khi bà Kim Anh chết, ông Nam tạo lập thêm được căn nhà số 179/2A NTL, 01 xe ô tô 4 chỗ hiệu Mercedes và một số đồ dùng sinh hoạt. Ngày 10/10/1995, ông Nam lập di chúc chia thừa kế cho 6 người con chung của ông với bà Kim Anh 2/3 giá trị căn nhà 215A NTL, còn lại 1/3 giá trị nhà 215A NTL giao cho chị LQ_Vũ Thị Kim Lài quản lý, sử dụng, dùng một phần để thờ cúng tổ tiên, một phần để chia cho 3 con riêng của ông Nam với bà LQ_Vũ Thị Kim Liễu là anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng và chị LQ_Hằng (khi anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng, chị LQ_Hằng đến tuổi trưởng thành).


79/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1392
  • 35

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng

26-02-2010

Theo đơn kiện ngày 24/6/2006 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Nông Thị Noọng trình bày: chị và anh Toàn Văn Inh kết hôn vào năm 1992 không có đăng ký kết hôn. Trước khi kết hôn chị và anh Inh đều đã lập gia đình và mỗi người đều đã có một con riêng. Quá trình chung sống chị và anh Inh sinh được hai con chung là cháu Toàn Văn Thụ sinh ngày 09/5/1994 và cháu Toàn Thị Vui sinh ngày 14/2/1996. Do mâu thuẫn giữa con chung và con riêng của vợ chồng, anh Inh thường xuyên chửi bới và đuổi chị ra khỏi nhà. Đã nhiều lần 1 Trưởng xóm và chính quyền hòa giải, khuyên can nhưng anh Inh không chịu thay đổi. Anh Inh vẫn chửi bới và tuyên bố không làm ăn với chị nữa làm cho cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, không có hạnh phúc.


61/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 433
  • 6

Ly hôn

02-02-2010

Theo đơn ly hôn đề ngày 10/9/2005 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mai trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Hà kết hôn năm 1994 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện TY; sau khi kết hôn vợ chồng chị về ở cùng mẹ chồng 2 tháng thì vợ chồng chị ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn vì anh Hà làm ăn không bàn bạc với vợ, tự ý làm và vay mượn nên vợ chồng thường xuyên đánh cãi nhau, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh Hà.


03/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1363
  • 32

Tranh chấp thừa kế

07-01-2010

Sinh thời cụ Mai Bán và cụ Lê Thị Lời (là cha mẹ của các ông) tạo lập được căn nhà cấp 4 lớp tôl trên 3.300m2 đất tại thôn Cửa Suối, xã CH, thị xã HA (nay là thành phố HA). Năm 1987 cụ Bán chết, ngày 04/01/1994 cụ Lời chết. Diện tích đất nêu trên do bà BĐ_Nguyễn Thị Phụng (vợ của ông Mai Tứ, chết năm 1969, ông Tứ cũng là con của cụ Bán, cụ Lời) quản lý, sử dụng. Vì vậy, các ông yêu cầu chia thừa kế diện tích đất nêu trên cho các con của hai cụ là các ông, bà NĐ_Mai Xuân Hải, NĐ_Mai Xuân Lân, LQ_Mai Thị My, LQ_Mai Thị Tú, LQ_Mai Thị Ý và các thừa kế thế vị của ông Mai Tứ.


883/2010/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 680
  • 14

Yêu cầu xác định cha cho con

10-08-2010
TAND cấp tỉnh

Vào tháng 10/2006 bà có chung sống với ông MBA Raymond Nvvabuike tại số nhà 285/11/1 Nguyễn Công Trứ, phường cầu Ông Lãnh, quận X. Tháng 5/2007 hai người chia tay vì ông MBA Raymond Nwabuike có người phụ nữ khác. Lúc đó, bà đang mang thai, ông có biết việc này và hứa sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng và lo cho bà khi sinh cháu. Ngày 06/11/2007, bà sinh cháu Bùi Bảo Trân. Từ đó đến nay ông MBA Raymond Nwabuike không thực hiện lời hứa của mình, chỉ thỉnh thoảng đưa bà vài trăm nghìn đồng Việt Nam. Hiện nay, ông MBA Raymond Nwabuike không công nhận trẻ Bùi Bảo Trân là con ruột của mình. Do vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án xác nhận ông MBA Raymond Nwabuike là cha của trẻ Bùi Bảo Trân và có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 8.000.000 đồng cho đến khi trẻ Trân tròn 18 tuổi.