20/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3729
- 66
Tranh chấp sở hữu chung hỗn hợp
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/4/2005 và trong quá trình tham gia tố tụng, ông NĐ_Đậu Ngọc Luân trình bày: Ngày 04/3/2003, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng đã ký kết hợp đồng liên doanh liên kết số 15/2003. Theo hợp đồng, ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng cùng góp vốn để hợp tác với LQ_Công ty Hwan Tinan thực hiện việc khai thác và nhập khẩu gỗ từ Campuchia về Việt Nam tiêu thụ hoặc tái xuất khẩu, thời hạn kết thúc hợp đồng là ngày 31/12/2003. Cùng ngày 04/3/2003, ông đã góp cho BĐ_Công ty Thanh Hồng 2.000.000.000 đồng. Sau khi góp vốn, ông đã cùng bà Nga sang Campuchia để tìm hiểu về khả năng thực hiện việc liên doanh liên kết. Sau đó, BĐ_Công ty Thanh Hồng và LQ_Công ty Hwan Tinan ký kết hợp đồng vào thời điểm nào thì ông không được biết, nhưng khi hết thời hạn thỏa thuận giữa ông và BĐ_Công ty Thanh Hồng thì không thấy BĐ_Công ty Thanh Hồng nhập khẩu gỗ về Việt Nam. Ông đã nhiều lần yêu cầu BĐ_Công ty Thanh Hồng hoàn trả lại cho ông phần vốn ông đã góp, nhưng BĐ_Công ty Thanh Hồng không trả.
315/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 640
- 4
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 7/5/2004 và lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà NĐ_Huỳnh Thị Mai, bà NĐ_Huỳnh Thị Chinh trình bày: Căn nhà 8F/7 BĐ, phường 14, quận Z, thành phố HCM có nguồn gốc đất của cụ Huỳnh Thị Hoa và cụ Nguyễn Văn Thơm. Vợ chồng cụ Hoa và cụ Thơm có hai người con là bà NĐ_Huỳnh Thị Chinh và bà NĐ_Huỳnh Thị Mai. Năm 1985 cụ Thơm chết; năm 1988 cụ Hoa cho ông BĐ_Nguyễn Ngọc Sang và bà BĐ_Bùi Tuyết Miên vào cất căn chòi có diện tích 24,5m2. Sau đó vợ chồng ông BĐ_Sang tự ý xây cất cơi nới thành 87m2 và năm 2001 tự ý đi hợp thức hóa nhà. Ngày 7/4/2004 cụ Hoa đã khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Sang bà BĐ_Miên phải tháo dỡ phần xây dựng đê trả lại cho bà phần đất có diện tích 87m2.
312/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1189
- 21
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Bùi Văn Cần và bà NĐ_Dương Thị Chi khai như sau: Nguồn gốc toàn bộ 7.898m2 đất tại thửa số 150 và 151 là do vợ chồng ông chuyển nhượng lại của bà Trương Thị Nở, có lập giấy tay và được Trưởng ấp Lý Văn út xác nhận, ông NĐ_Cần đăng ký quyền sử dụng đất năm 1992, năm 1995 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông NĐ_Cần chuyển nhượng đất của bà Nở, tại thửa 151 có căn nhà của vợ chồng ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên. Do hoàn cảnh ông BĐ_Minh bà BĐ_Liên khó khăn nên ông kỊiông yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Minh dọn đi ngay mà vẫn để thời gian cho ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên thu xếp, khi nào ông cần sử dụng thì ông sẽ báo trước vài tháng để vợ chồng ông BĐ_Minh trả đất. Tuy nhiên trong quá trình ở trên đất này, vợ chồng ông BĐ_Minh đã cho các con cất nhà và lấn thêm đất. Ông NĐ_Cần đã ngăn chặn nhưng vợ chồng ông BĐ_Minh bà BĐ_Liên vẫn không nghe mà ngày càng mở rộng diện tích đất sử dụng. Diện tích tranh chấp được xác định là 572m2. Chính quyền địa phương đã có hòa giải nhưng không thành nên ông NĐ_Cần khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên trả đất.
55/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2153
- 87
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 24/11/2006 hai bên ký hợp đồng mua bán nhà với giá là 28,2 tỷ đồng. Cùng ngày. BĐ_Công ty Phước Thành đưa trước cho ông 5 tỷ đồng và ký luôn biên bản giao nhà và đồng ý cho vợ chồng ông được tạm ở lại 60 ngày. Sau đó, ông thương lượng với ông Tọa - Giám đốc BĐ_Công ty Phước Thành là hủy bỏ hợp đồng mua bán căn nhà trên, ông sẽ trả lại 05 tỷ và lãi suất nợ quá hạn cho BĐ_Công ty Phước Thành nhưng ông Tọa yêu cầu ông phải bồi thường gấp đôi là 10 tỷ đồng, ông không chấp nhận. Tháng 12/2006 Ngân hàng thông báo BĐ_Công ty Phước Thành đã nộp tiền mua nhà vào tài khoản của Ngân hàng, khấu trừ 5 tỷ đồng mà vợ chồng ông đã nhận và các khoản chi phí khác, số tiền còn lại Ngân hàng sẽ khấu trừ khoản nợ vay của Công ty Quế Lâm, còn lại khoản hơn 4 tỷ đồng chuyển vào tài khoản cho ông và mời ông ký để hủy hợp đồng vay, nhưng ông không đồng ý. Sau đó, Ngân hàng vẫn gửi thông báo cho ông việc thanh lý hợp đồng vay với Công ty Quế Lâm. Nay ông khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà, ông sẽ hoàn lại cho BĐ_Công ty Phước Thành 5 tỷ đồng và bồi thường gấp đôi mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định là 2,06%/tháng và sẽ thanh toán trong thời hạn 01 tháng.
59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1694
- 44
Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.