cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

24/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2946
  • 62

Tranh chấp quyền sử dụng đất

28-01-2015
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 30 tháng 11 năm 2007, nguyên đơn trình bày như sau: Năm 1992, ông LQ_Dư Hớn Phát và LQ_Nguyễn Văn Dũng có góp vốn với ông Phạm Minh Thường để mua chung thửa đất ngang 30m, dài 97m tọa lạc thửa số 424 tờ bản đồ số 3 xã TTT, huyện NB (nay là phường BT, Quận X) của bà Nguyễn Thị Ngói và ông Phan Văn Sanh. Ông Thường, ông LQ_Phát và ông LQ_Dũng thống nhất để ông Thường đang ở tại NB đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cả ba cùng thỏa thuận, ông Thường được sử dụng phần đất có diện tích ngang 20m x dài 97m, còn ông LQ_Dũng và ông LQ_Phát mỗi người được sử dụng phần đất ngang 5m x dài 97m. Năm 1994, phần đất trên được UBND huyện NB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.913m2, tại vị trí thửa 434, tờ bản đồ số 3 xã TTT, huyện NB cho ông Phạm Minh Thường theo thỏa thuận của cả ba.


02/2012/KDTM–ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 2158
  • 50

Tranh chấp hợp đồng góp vốn đầu tư

15-05-2012
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/8/2005, đơn khởi kiện bổ sung ngày 14/9/2011 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án bà NĐ_Lê Thị Huỳnh Mừng và chồng là ông LQ_Dương Văn Bằng trình bày: bắt đầu vào năm 2002 có góp vốn với ông BĐ_Lý Kim Thanh để nuôi 4 hồ cá tra do ông BĐ_Thanh trực tiếp nuôi. Việc góp vốn hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng, quá trình nuôi cũng không lập sổ sách theo dõi nên hai bên tranh chấp nhau trong việc chia lời, lỗ. Vợ chồng bà NĐ_Mừng, ông LQ_Bằng yêu cầu những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông BĐ_Lý Kim Thanh (bị đơn) hoàn trả tiền góp vốn và tiền lời nuôi cá tổng cộng là 442.201.000đ (bốn trăm bốn mươi hai triệu ba trăm lẻ một ngàn đồng).


45/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1182
  • 32

Tranh chấp thừa kế

11-04-2010

Theo đơn khởi kiện ngày 22/5/1995 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Võ Thanh Duy (tức NĐ_Võ Hữu Dư) trình bày: Cha mẹ của ông là cụ Võ Thành Thái và cụ Trần Thị Khê có 07 người con chung là ông BĐ_Võ Văn Thịnh, bà LQ_Võ Kim Nhi, ông NĐ_Võ Thanh Duy, bà LQ_Võ Kim Định, ông Võ Anh. Tại Quyết định số 473/200/QĐ-PT ngày 10/11/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố HCM quyết định: đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Bán án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 29/4/1997 của Tòa án nhân dân tỉnh AG có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 10/11/2006.


75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 558
  • 7

Tranh chấp thừa kế

27-06-2013

Theo bằng khoán điền thổ (tiếng Pháp), các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thì nhà đất tranh chấp tại Đường Hàng Lọng số 77, Bằng khoán điền thổ số 293, ĐK, HN, nay là số 75-77 LD, phường CN, HK, HN có nguồn gốc là của cố Trần Thị Bàn đứng tên mua năm 1941. Sau đó, cố Bàn cho cháu ngoại là cụ NĐ_Trần Thị Nga toàn bộ nhà đất đã mua theo chúc thư ngày 15/7/1941. Năm 1944, cụ NĐ_Nga kết hôn với cụ Phạm Ngọc Yến và về ở tại nhà đất này. Năm 1946, cụ NĐ_Nga và cụ Yến đã sang tên trên bằng khoán điền thổ. Năm 2000, cụ Yến chết không để lại di chúc. Năm 2003, cụ NĐ_Nga được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 120m2, diện tích đất 253m2.


264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 875
  • 9

Yêu cầu chia thừa kế

21-06-2013

Năm 2006, cụ Đệ chết có để lại di chúc lập ngày 25/4/2005 (do ông Chu Văn Đinh Viết và có hai người làm chứng là bà Hoàng Thị Lịch, ông Trần Văn Đức) với nội dung sau khi cụ chết thì người thừa kế toàn bộ nhà đất tại 11 THĐ là bà NĐ_Mai Thị Liên (BL5). Với nội dung trên nguyên đơn bà NĐ_Mai Thị Liên khởi kiện yêu cầu các đồng thừa kế là ông LQ_Quan, ông LQ_Bảo, ông LQ_Tài, bà BĐ_Linh và bà LQ_Hằng giao nhà đất cho bà. Nếu di chúc không hợp pháp, bà yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.