cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1109/2015/DS-PT: Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2208
  • 58

Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

08-09-2015
TAND cấp tỉnh

Bà NĐ_Trần Thị Linh trình bày: Xuất phát từ chỗ quen biết, vào năm 1995, bà NĐ_Trần Thị Linh có cho bà BĐ_Bùi Thị Loan vay số tiền là 1.800.000.000 đồng. Qua nhiều lần đòi nợ không có kết quả, ngày 10/5/2012 bà NĐ_Linh chính thức khởi kiện bà BĐ_Bùi Thị Loan và ông Nguyễn Văn Nghĩa tại Tòa án nhân dân Quận C để yêu cầu bà BĐ_Loan và ông Nghĩa phải thanh toán toàn bộ số nợ cho bà. Qua hai cấp xét xử, bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật số 321/2013/DS-PT ngày 13/3/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố HCM đã quyết định buộc bà BĐ_Bùi Thị Loan phải thanh toán cho bà NĐ_Trần Thị Linh số tiền là 4.669.841.096 đồng.


1067/2015/DSPT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2169
  • 106

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

31-08-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Hữu Chung, bà NĐ_Trương Thị Hà trình bày: Ngày 15/6/2011, ông NĐ_Chung và bà NĐ_Hà có ký hợp đồng ủy quyền tại Phòng Công chứng Nhà nước số 5, Tp HCM - ủy quyền cho con trai là LQ_Nguyễn Hữu Cần làm thủ tục giải chấp nhà số 457/19 đường TS (số cũ 10D/10 đường QT), Phường 12, quận GV, TP.HCM tại Ngân hàng TMCP phát triển nhà - Chi nhánh Lãnh Binh Thăng, phòng giao dịch Lạc Long Quân. Sau khi giải chấp xong sẽ tiếp tục thế chấp căn nhà cho Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Nhưng, sau khi giải chấp ông LQ_Cần con của ông NĐ_Chung và bà NĐ_Hà lại tự ý vay của bà LQ_Minh Thanh Thủy (LQ_Do Tina Minh) 2.400.000.000 đồng, đồng thời lập ký hợp đồng bán căn nhà trên cho bà LQ_Minh, bà LQ_Minh nhờ bà BĐ_Hoàng Thị Bích Vy đứng tên. Việc vay mượn và ký hợp đồng mua bán nhà giữa con trai ông bà với bà LQ_Minh, ông bà hoàn toàn không biết. Chỉ đến khi bà LQ_Minh đến đòi nhà thì ông bà mới biết.


1043/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1114
  • 17

Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà

26-08-2015
TAND cấp tỉnh

Thông qua Công ty TNHH Tư vấn - Môi giới bất động sản Lộc Phát, ngày 10/02/2012 ông NĐ_Đoàn Đình Sung (bên nhận chuyển nhượng) và bà Đoàn Thùy Phương (bên chuyển nhượng) có ký hợp đồng đặt cọc. Nội dung hợp đồng bà BĐ_Phụng đồng ý chuyển nhượng căn nhà số 228, đường 18 khu B thuộc dự án An Phú – AK, Quận A, Thành phố HCM có diện tích 200m2 (10 x 20m) do LQ_Công ty TNHH Một thành viên Phát triển và Kinh doanh Quốc Thịnh làm chủ đầu tư (theo Hợp đồng số 794/HĐAPB-KD ngày 26/12/2000 và Phụ lục hợp đồng số 794B/2009/PLHĐAPAK ngày 04/9/2009 đứng tên hợp đồng là bà Đoàn Thùy Phương) cho ông NĐ_Sung. Giá chuyển nhượng là 14.450.000.000đ (mười bốn tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng), thỏa thuận phương thức thanh toán như sau:


1044/DSPT: Ly hôn Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 585
  • 31

Ly hôn

21-08-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Tính có những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng do bà LQ_Lê Thị Loan đại diện trình bày: Phần đất thuộc một phần thửa 605, một phần thửa 606 tờ bản đồ số 5 thị trấn TT, huyện BC, Thành phố HCM có diện tích 563,1m2 có nguồn gốc của cha ông NĐ_Lê Văn Tính là ông Lê Văn Rạng để lại cho ông NĐ_Tính từ năm 1975. Trong quá trình sử dụng đất ông NĐ_Tính đã kê khai đăng ký, đăng ký được ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001, trong thời gian canh tác ông cũng đóng thuế đầy đủ.


946/2015/HNGĐ-PT: Ly hôn Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 477
  • 9

Ly hôn

07-08-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn – ông NĐ_Nguyễn Huỳnh Phụng trình bày: Ông và bà BĐ_Đoàn Thị Dương tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 107, quyển số 01/2008 năm 2008 của Ủy ban nhân dân xã BL, huyện BC, Thành phố HCM. Đôi bên chung sống hạnh phúc bình thường cho đến cuối năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn về kinh tế. Sau đó, ông có gặp lại bạn gái cũ và vẫn giữ mức độ bạn bè nhưng bà BĐ_Dương cho là ông có vợ bé nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Ông và bà BĐ_Dương đã sống ly thân từ cuối năm 2014 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà BĐ_Đoàn Thị Dương.