cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

03/2015/HS-GĐT: tội Giết người (Điều 93) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1871
  • 66

(Điều 93) Vụ án Giết người

14-01-2015

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 68/GĐPY ngày 22-10-2012 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi kết luận nguyên nhân chết của anh Lê Phát Tài là do chấn thương sọ não kín. Vật gây ra thương tích là vật cứng, do ngoại lực tác động vào gây chấn thương.


Quyết định tái thẩm 01/2015/HS-TT đình chỉ vụ án oan 10 năm ông Nguyễn Thanh Chấn Bắc Giang Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1694
  • 38

(Điều 93) Vụ án Giết người

12-01-2015

Sau khi vụ án được điều tra lại, tại Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 01/C44-P3 ngày 25-01-2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ công an đã đình chỉ điều tra đối với ông Nguyễn Thanh Chấn nên ông Nguyễn Thanh Chấn cũng không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự


1634/2014/DS-PT : Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1844
  • 60

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-12-2014
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn - NĐ_Nguyễn Thị Hồng Điệp trình bày: Nguyên lối đi chung có diện tích 59,6 m2 tại tổ 6, ấp 3, xã XTT, huyện HM đã hình thành từ trước năm 1975, lối đi này có chiều rộng khoảng 5 m, chiều dài khoảng 13 m, thuộc thửa đất 1026 do gia đình bà sử dụng đã được Ủy ban nhân dân huyện HM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00861/QSDĐ ngày 10/11/1992 cho chồng bà là ông LQ_Phạm Văn Xoài. Đây là lối đi chung của nhiều hộ dân. Vào khoảng tháng 5 năm 2011 bà BĐ_Mai Thị Xê đã tự ý cho thợ xây móng, đổ đất, đá bít lối đi này trước nhà bà. Do đó bà khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Mai Thị Xê trả lại diện tích đất lấn chiếm để trả lại lối đi chung. Phần đất tranh chấp lối đi hiện nay qua đo đạc thực tế có diện tích 48,8 m2 thuộc phần đường, thửa phân chiết c, khu 2 (theo bảng chỉ dẫn diện tích tài liệu 2005), bản đồ hiện trạng vị trí số hợp đồng 96394/CN HM – CC ký đóng dấu ngày 19/11/2013 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài Nguyên Môi Trường Thành Phố HCM. Bà yêu cầu bà BĐ_Mai Thị Xê phải tháo dỡ móng gạch trả lại diện tích đất lấn chiếm để làm lối đi công cộng.


1486/2014/DSPT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 398
  • 9

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-11-2014
TAND cấp tỉnh

Phần đất tranh chấp có diện tích 39,4m2 (thuộc một phần thửa số 38, 41, 42 tờ bản đồ thứ 14, Bộ địa chính phường TP, Quận X theo tài liệu đo đạc năm 2003) do gia đình ông sử dụng từ năm 1953. Năm 2004 ông BĐ_Bình lấn sang phần đất này nên phát sinh tranh chấp, ông làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân phường TP, năm 2009 ông BĐ_Bình chặt lá dừa, làm hàng rào. Ông nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Bình tháo dỡ phần mái tôn che trả lại phần đất này nhưng phía ông BĐ_Bình không thực hiện. Theo bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ lập, ông yêu cầu Tòa án buộc ông BĐ_Bình trả phần đất có diện tích 39,4m2 mà ông BĐ_Bình lấn chiếm của ông và đã được cấp giấy chứng nhận (thể hiện trên bản đồ hiện trạng vị trí - xác định ranh do Trung tâm Đo đạc Bản đồ - Sở tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 22/10/2012 là các vị trí số 17, 18, 19 tại một phần thửa số 38, 41, 42 tờ bản đồ thứ 14, Bộ địa chính phường TP, Quận X theo tài liệu đo đạc năm 2003). Đối với phần đất ông BĐ_Bình đang quản lý sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận (thuộc các vị trí 20, 21 của bản đồ hiện trạng vị trí - xác định) ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.


1471/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 428
  • 14

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

19-11-2014
TAND cấp tỉnh

Do quen biết nên bà NĐ_Phạm Thị Lành cho bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên vay số tiền 35.200.000đồng theo giấy vay tiền ngày 04/8/2013. Thời hạn vay là 01 tháng, đến thời hạn trả nợ bà BĐ_Niên không trả tiền nên ngày 12/02/2014 bà NĐ_Lành có đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên phải trả số tiền 35.200.000đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà NĐ_Lành xin rút một phần yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bà BĐ_Niên trả số tiền 33.200.000đ vì bà BĐ_Niên đã trả được cho bà NĐ_Lành 2.000.000đồng tiền vốn. Bà NĐ_Lành xác định quá trình mượn tiền chỉ một mình bà BĐ_Niên thực hiện, chồng bà BĐ_Niên là ông LQ_Nguyễn Anh Khoa không có liên quan đến việc mượn tiền nên bà chỉ yêu cầu một mình bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Niên có trách nhiệm trả nợ.