363/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1200
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Ông NĐ_Gương bà NĐ_Chi là con của ông Chung Bồi (đã chết, không nhớ năm nào) và bà Nguyễn Thị Ngành (chết năm 1948). Bà Ngành là con của ông Nguyễn Văn Bảy (chết năm 1981) và bà Huỳnh Thị Xi (chết năm 1996). Ông Bảy bà Xi có tất cả 02 người con là bà Ngành và ông Nguyễn Văn Sang (chết năm 2003). Ông Sang (trước năm 1975 ông Sang còn có tên là Nguyễn Văn Ba - gọi là Ba Nhỏ) có tất cả 03 vợ. Người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị Tư (chết năm 2001), không có con chung, chỉ có 02 người con nuôi là ông LQ_Đỗ Như Vân (còn có tên là Nguyễn Văn Trọng) và ông BĐ_Nguyễn Trung Thu. Người vợ thứ hai là bà LQ_Nguyễn Thị Ngân, có 02 người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn và bà LQ_Nguyễn Thị Bình. Người vợ thứ ba là bà Huỳnh Thị Truyện (chết không nhớ năm nào), có 01 con chung là bà LQ_Huỳnh Thị Hương. Bà LQ_Nguyễn Thị Ngân có tất cả 3 người con là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn, bà LQ_Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Văn Rớt.
363/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2464
- 53
Ban đầu, nguyên đơn có yêu cầu chia tài sản chung là nhà và đất tọa lạc tại số 172/3A diện tích 292m2 từ di sản thừa kế của ông Bảy bà Xi theo quy định của pháp luật. Sau đó, đã có văn bản thay đổi yêu cầu khởi kiện, không còn yêu cầu Tòa giải quyết tranh chấp chia tài sản chung nữa mà yêu cầu ông BĐ_Thu là người đang quản lý di sản nhà và đất 172/3A và những người đang ở trong nhà phải giao trả lại tài sản này cho nguyên đơn vì nguyên đơn là người thừa kế của ông Bảy bà Xi. Về chi phí sửa chữa, tôn tạo tài sản tranh chấp của ông BĐ_Thu nguyên đơn đồng ý thanh toán cho bị đơn số tiền 495 triệu đồng. Nguyên đơn không đồng ý yêu cầu phản tố của bị đơn về việc công nhận quyền sở hữu tài sản tranh chấp là của bị đơn do được hưởng thừa kế của ông Sang bà Tư; yêu cầu Tòa hủy Giấy khai sinh đăng ký quá hạn của ông BĐ_Nguyễn Trung Thu số 07/ĐKQH quyển số 01/2004 do LQ_Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận X, Thành phố HCM (viết tắt là UBNDP14Q6) cấp ngày 02/01/2004; không đồng ý yêu cầu hủy giấy khai sinh của nguyên đơn. Ngoài ra, ông NĐ_Gương không còn yêu cầu nào khác.
25/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 853
- 19
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Năm 1970 bà NĐ_Lâm có đăng ký mua căn nhà phố chợ B8 với diện tích đất 120 m2, diện tích xây dựng 164 m2 tại Trung tâm thương mãi TĐ – Chợ Mới. Năm 1975 bộ đội tiếp quản khu Chợ Mới, mượn tạm các dãy phố lầu để làm công tác tiếp quản chính quyền. Sau đó toàn bộ khu Trung tâm thương mãi TĐ được giao cho nhà máy cơ khí A74 quản lý sử dụng nhưng bà NĐ_Lâm và các hộ dân đã mua các căn nhà phố chợ hợp pháp vẫn không được nhà máy cơ khí A74 bồi hoàn. Đến năm 2008, căn hộ B8 của bà NĐ_Lâm bị ảnh hưởng một phần bởi dự án xây dựng đường nối Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài. Ngày 02/5/2013, bà NĐ_Lâm nhận được Quyết định số 2208/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 của BĐ_UBND quận TĐ về việc chi trả tiền bồi thường hỗ trợ trong dự án xây dựng đường nối Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài với nội dung chi trả tiền bồi thường hỗ trợ 84 m2 đất và 164 m2 nhà, vật kiến trúc, công trình phụ nằm trong ranh giải tỏa cho bà với tổng số tiền 788.444.000 đồng.
32/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 616
- 25
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Ngày 21/5/2012, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 6584/QĐ-UBND về việc điều chỉnh nội dung Điều 1 tại Quyết định số 5206/QĐ-UB ngày 01/11/2005 ban hành kèm theo Bảng chiết tính điều chỉnh số 12/TML-ĐCBS ngày 09 tháng 4 năm 2012. Theo Quyết định này, BĐ_UBND Quận X cho rằng phần diện tích đất 102 m2 thuộc thửa 307 tờ số 5, mục đích sử dụng “Thổ” là loại đất trồng cây lâu năm không phải đất ở. Từ đó áp giá chiết phần đất này theo loại đất nông nghiệp lâu năm với giá 200.000 đồng/m2. Ông NĐ_Minh nhận thấy Quyết định bồi thường nêu trên xác định phần diện tích đất 102 m2 thuộc thửa 307 tờ số 5, mục đích sử dụng “Thổ” là loại đất trồng cây lâu là chưa phù hợp, thiếu căn cứ vì Theo Giấy xác nhận hồ sơ pháp lý nhà đất số 349/UBND-XN ngày 16/9/2011 của LQ_UBND Phường TML trên phần diện tích đất trên có căn nhà lá tự cất từ năm 1976; có công trình phụ gồm chuồng gà, nhà kho, nhà vệ sinh, và hiên; Phần diện tích đất đã cấp giấy CNQSDĐ cho ông NĐ_Minh có thửa 307 diện tích 102 m2, mục đích sử dụng: “Thổ” Hiện tại: không có tranh chấp.
24/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1875
- 90
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Mặt khác hợp đồng chuyển nhượng Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở công chứng số 14305 ngày 26/5/2009 giữa ông LQ_Võ Văn Gông, bà Trương Thị Tư với ông NĐ_Võ Minh Phùng được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật và hiện hợp đồng chuyển nhượng này còn nguyên giá trị pháp lý. Do đó giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3085/2009/GCN ngày 15/7/2009 cấp cho ông NĐ_Võ Minh Phùng là đúng quy định pháp luật, không thuộc trường hợp cấp giấy chứng nhận trái quy định của pháp luật nên BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ không thể tùy tiện thu hồi, hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông NĐ_Phùng khi chưa có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành. Với những căn cứ pháp luật quy định như nêu trên, người khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân quận TĐ hủy quyết định số 7191/QĐ-UBND ngày 09/12/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3085/2009/GCN ngày 15/7/2009 đã cấp cho ông NĐ_Võ Minh Phùng đối với căn nhà số 75/36 đường số 48, khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, thành phố HCM.