cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

804/2015/DSPT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 277
  • 13

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

07-07-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Vũ Thắng Thiên và là người được người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà LQ_Đinh Thị Nhân ủy quyền trình bày: Ngày 06/6/2010 bà BĐ_Trần Thị Tiên có vay tiền của ông NĐ_Vũ Thắng Thiên và bà LQ_Đinh Thị Nhân (tên thường gọi là Liễu, nhưng thật chất là LQ_Đinh Thị Nhân). Nội dung Hợp đồng vay tiền ngày 06/6/2010 thỏa thuận như sau: - Số tiền vay: 455.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi lăm triệu đồng); - Thời hạn vay: 02 (Hai) tháng, kể từ ngày 06/6/2010;


18/2015/HS-GĐT: tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1401
  • 39

(Điều 280) Vụ án Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

06-11-2015

Ngày 01/4/2004, ủy ban nhân dân huyện Tân Uyên có Công văn số 286/CV- UB về việc chấp thuận địa điểm xây dựng 03 nhà máy do ông Chang là đại diện chủ đầu tư. Ngày 06/4/2004, Nhi mời các hộ dân có đất nằm trong dự án đến họp bàn về việc quy hoạch khu công nghiệp. Trong cuộc họp, Nhi và Minh đưa ra ba khung giá đền bù giải tỏa gồm: 45.000 đồng/m2 đối với đất có cây cao su đang thu hoạch mủ; 42.000 đồng/m2 đối với đất có cây cao su chưa thu hoạch mủ hoặc cây điều, tràm; 40.000 đồng/m2 đối với đất trống. Các hộ dân tin tưởng đây là chủ trương của Nhà nước nên đồng ý các nội dung mà Nhi và Minh đưa ra. Tông cộng Nhi đã nhận của ông Chang 26.250.000.000 đồng để giao 525.531m đất. Số tiền đã nhận, Nhi và Minh chi cụ thể như sau: chi 1.283.000.000 đồng để làm đường đi vào nhà máy; chi 22.420.410.000 đồng đền bù cho các hộ dân; chi 226.898.873 đồng đền bù 4.776m2 đất công ích; tổng cộng Nhi đã chi 23.930.308.873 đồng, số tiền chênh lệch thừa 2.319.690.925 đồng Nhi chia 150.000.000 đồng cho Nguyễn Văn Minh; 600.000 000 đồng cho ông Mạnh Cường; 100.000.000 đồng cho Đảng ủy xã Hội Nghĩa; còn lại 1.469.690.925 đồng, Nhi giữ sử dụng.


14/2015/HS-GĐT: tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1165
  • 43

(Điều 194) Vụ án Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

20-10-2015

Khoảng 12 giờ ngày 16-02-2009, Tổ công tác phòng chống ma túy thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai, phối hợp với Đồn Biên phòng 241 huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai bắt qủa tang Phàn Văn Phủ, Phàn Seo Ngáo và 02 đối tượng khác (không xác định được địa chỉ) đang mua bán trái phép 5.998 ống thuốc tiê m(tương đương 11.996 ml) nghi là chất ma túy Diazepam; Phủ, Ngáo bị bắt giữ và bị thu giữ số vật chứng nêu trên.


08/2015/HS-GĐT: tội Tham ô tài sản (Điều 278) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1573
  • 30

(Điều 278) Vụ án Tham ô tài sản

21-05-2015

Thái đã lợi dụng lòng tin của Ban quản lý kho quỹ để lấy tiền từ quỹ của MB Việt Trì. Thái lấy tiền nhiều lần, cụ thể ngày, giờ, số lượng tiền mỗi lần lấy Thái không nhớ chính xác, nhưng do phải theo dõi tiền xuất nhập hàng ngày nên Thái biết trong năm 2011 Thái đã lấy 4.300.000.000 đồng ở kho do Thái phụ trách, số tiền này Thái kinh doanh chứng khoán thua lỗ hết. Ngày 23-11-2011, biết Hội sở Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB) lên kiểm tra quỹ tiền mặt, để tránh bị phát hiện, Thái đã vay 4.300.000.000 đồng của anh Bùi Văn Thuỷ là lao động tự do ở khu 7, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ bù vào quỹ của MB Việt Trì nên Hội sở không phát hiện được số tiền Thái chiếm đoạt.


07/2015/HS-GĐT: tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1059
  • 20

(Điều 285) Vụ án Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

21-05-2015

Trong quá trình thực hiện, Nguyễn Kiên Định và Nguyễn Văn Mười không lưu giữ danh sách đề nghị của các xã, không phối hợp với các cơ quan trong huyện như Phòng Lao động - Thương binh và xã hội, Hội cựu chiến binh, Công an, Bảo hiểm xã hội huyện, Đoàn thanh niên và chính quyền địa phương nên không có cơ sở để kiểm tra đối chiếu nhằm phát hiện, loại bỏ những đối tượng trùng, đối tượng không đủ tiêu chuẩn, không xác định được bao nhiêu trường hợp đã được hưởng chế độ khác.