cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

58/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2505
  • 42

Tranh chấp thừa kế

19-12-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Sinh thời cha các nguyên đơn (ông Long) tạo lập được một số tài sản trong đó có các căn nhà và đất ở ST và khi còn sống thì ông Long đã chia cho các con của mẹ kế, còn lại căn nhà 3 tầng gắn liền diện tích đất thổ cư 53,2m2, tại thửa 412, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại số 28 đường HBT, khóm 1, phường 1, thành phố ST, hiện do cha là ông Long và mẹ kế là bà BĐ_Mai đứng tên chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Khi còn sống, sợ sau này anh em có sự tranh chấp tài sản, nên cha các nguyên đơn đã đến Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh ST lập bản di chúc vào ngày 16/01/2007, để lại toàn bộ tài sản của ông trong khối tài sản chung của vợ chồng là căn nhà và đất nói trên, cho hai người con là các nguyên đơn, mỗi người được hưởng phân nửa giá trị bằng nhau


66/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2395
  • 57

Tranh chấp thừa kế

22-09-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Ngôi nhà đất có giá trị 1.178.771.190đ toạ lạc tại 13/1 Hà Ra, khóm Vạn Lợi, phường VT, thành phố NT, tỉnh KH là di sản của vợ chồng ông Lê Phan (chết 1986), bà Phạm Thị Đó (chết 2008) để lại. Năm 1986 ông Lê Phan chết không để lại di chúc, kể từ đó đến trước khi bà NĐ_Mai khởi kiện, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan không có ai yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Phan theo pháp luật. Vì vậy, di sản của ông Phan vẫn còn đó, dù có còn hay hết thời hiệu khởi kiện cũng như chưa đủ điều kiện chia tài sản chung phần di sản của ông Phan như án sơ thẩm án sơ thẩm xác định thì bà Phạm Thị Đó cũng không có quyền định đoạt đối với phần di sản của ông Phan. Muốn định đoạt đối với phần di sản của ông Phan phải có sự thống nhất của các đồng thừa kế của ông Phan gồm bà Đó và những người con chung của ông bà. Do đó, việc bà Đó lập di chúc ngày 16/5/2003 định đoạt cả phần di sản của ông Phan là không hợp pháp.


34/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 584
  • 10

Tranh chấp thừa kế

31-03-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Về chia hiện vật, Tòa sơ thẩm xử đúng, tổng giá trị hiện vật ông NĐ_Bảo được nhận là: 3.545.715.000đ, tổng giá trị hiện vật ông BĐ_Tín được nhận là: 1.828.059.600đ, số liệu diện tích nhà đất và giá trị hiện vật này là chính xác. Cân đối giữa việc chia theo giá trị và chia theo hiện vật thì ông BĐ_Tín còn phải thanh toán cho ông NĐ_Bảo 299.745.648đ giá trị chênh lệch, ông NĐ_Bảo phải thanh toán cho vợ chồng ông BĐ_Tín, bà LQ_Diễm giá trị khu nhà trọ là 97.906.800đ, giá trị tường rào và trụ cổng là 20.000.000đ, tổng cộng là 117.906.800đ.


73/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 5265
  • 141

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

28-03-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Quá trình sử dụng nhà ông BĐ_Đại đã tự ý xây dựng thêm nhiều căn nhà trên đất khuôn viên, tổ chức đá gà, cho thuê mặt bằng... Năm 2004, ông Đức - bà Mỹ khiếu nại tại Ủy ban nhân dân phường A, quận BT và đề nghị Sở quản lý nhà đất - công trình công cộng thành phốHCM hủy bỏ việc ủy quyền nhà cho ông BĐ_Đại. Do Nhà nước chưa có chủ trương giải quyết các tranh chấp giao dịch về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài, nên năm 2006 Tòa án nhân dân thành phố HCM trả lại đơn khởi kiện của ông Đức - bà Mỹ.


91/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 611
  • 10

Tranh chấp thừa kế

24-07-2013

Năm 1988 cụ Tu chết thì ông BĐ_Quý con trai trưởng của cụ Tu quản lý phần đất còn lại. Quá trình quản lý, ông BĐ_Quý đã nhiều lần bán đất cho ông LQ_Nguyễn Đức Quang, bà LQ_Hoàng Thị Toàn và ông LQ_Vũ Hữu Ngoạn (sau khi mua đất của ông BĐ_Quý, ông LQ_Quang đã san lấp và bán lại cho những người khác). Do cố Lựu chết không để lại di chúc nên cụ NĐ_Lưu yêu cầu chia thừa kế toàn bộ tài sản của cố Lựu (riêng phần đất cụ Tu đã bán không yêu cầu chia). Đối với những phần đất ông BĐ_Quý đã bán cụ NĐ_Lưu đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật