39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2185
- 108
Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.
58/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1829
- 32
Về tài sản cố Chẩm và cố Ngát có nhà tranh vách đất, sân gạch, bể nước trên diện tích đất hiện nay là 650,24m2 (trích lục bản đồ năm 1973 ghi cố Chẩm, cố Ngát đứng tên sử dụng 706m2 đất) tại thôn Chính Trung, xã Trâu Quỳ, huyện GL, thành phố HN. Năm 1955 hai cố bị cụ Toàn (con dâu) tố là địa chủ nên bị tịch thu nhà, đất. Năm 1956 Nhà nước sửa sai hạ thành phần nên trả lại nhà đất cho 2 cố đồng thời cấp đất khác cho cụ Toàn. Cụ Toàn bán đất được cấp và xin lỗi hai cố, được hai cố chấp nhận nên cụ Toàn về ở cùng hai cố. Sau đó, cố Chẩm ra ở với cụ Lập và chết năm 1968 nên nhà chỉ còn cố Ngát và cụ Toàn ở. Năm 1979 cố Ngát ốm nặng, cụ Lập đón về chăm sóc và cố Ngát chết tại nhà cụ Lập. Năm 1980 cụ Toàn phá nhà của hai cố xây dựng nhà mới, tuy nhiên phần móng, bể nước và sân gạch của hai cố vẫn còn. Năm 1988, cụ Toàn cho con gái là bà Hạnh 227m2 đất, bà Hạnh đã bán, còn lại nhà trên 445m2 đất ông BĐ_Chiến quản lý, sử dụng.
194/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1310
- 25
Vợ chồng cụ Bùi Hữu Môn và cụ Hoàng Thị Giảng sinh được năm người con là LQ_Bùi Thị Mai, Bùi Văn Đức, NĐ_Bùi Văn Nhân, LQ_Bùi Thị Linh và BĐ_Bùi Văn Minh. Sinh thờ, cụ Môn và cụ Giảng tạo dựng được 01 nhà ngói 05 gian (đã xuống cấp không còn giá trị sử dụng) trên 169,3m2 đất ở thuộc thửa 270, tờ bản đồ số 19 tại xã ĐT, huyện TL, tỉnh HY đứng tên cụ Bùi Hữu Môn. Ngày 15/5/1998, cụ Môn lập di chúc được UBND xã ĐT chứng thực với nội dung: “Cho ông Đức 04m đất theo hướng từ Tây sang Đông kéo dọc hết chiều dài thửa đất; diện tích đất còn lại dùng để làm nhà thờ cúng gia tiên giao cho ông BĐ_Minh trông nom”. Bản di chúc này không có chữ ký của cụ Giảng.
175/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 437
- 16
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Lê Thị Giang trình bày: bà và chồng là ông Nguyễn Văn Phia có khai khẩn phần đất tại ấp Đá Chông, xã BT, huyện PQ, tỉnh KG. Tháng 8/1993 ông Phia bị bệnh chết, bà NĐ_Giang tiếp tục quản lý sử dụng đất, đến ngày 22/10/1993 bà NĐ_Giang làm thủ tục kê khai đăng ký và được ủy ban nhân dân huyện PQ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tờ bản đồ số 04, thửa số 02 diện tích 2.632m2 thửa số 03 diện tích 1.269m2. Tổng diện tích là 3.901m2.
160/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 350
- 6
Vợ chồng cụ Đặng Thưởng, cụ Phạm Thị Hà (tức Lãnh) là cha mẹ của ông NĐ_Đặng Vinh và ông BĐ_Đặng Thế Lân khi còn sống tạo lập được khối tài sản gồm: - Ngôi nhà trên diện tích 83,7m2 đất thuộc thửa số 5 tờ bản đồ 22, cụ Hà mua từ năm 1959. Năm 1967 cụ làm lại nhà và ở cùng Lãnh đến khi chết (năm 1999). - Ngôi nhà trên diện tích 1.831,8m2 đất thuộc thửa số 100, tờ bản đồ 16, do ông bà nội của ông NĐ_Vinh, ông BĐ_Lân để lại cho cha mẹ các ông quản lý từ năm 1939. Năm 1975 nhà bị hỏng, ông BĐ_Lân xây dựng lại. - Diện tích 1.366,3m2 đất thuộc thửa số 148 tờ bản đồ 12 do ông nội các ông để lại cho mẹ các ông canh tác, hiện ông BĐ_Lân trồng cây keo. Cụ Thưởng chết năm 1940, cụ Hà chết năm 1999 đều không để lại di chúc, toàn bộ khối di sản nêu trên đều do ông BĐ_Lân quản lý, sử dụng nên yêu cầu được chia di sản thừa kế, nhưng chỉ yêu cầu chia thừa kế đất, không yêu cầu chia thừa kế nhà.