cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

87/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 459
  • 13

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

11-07-2013

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án câp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét giám định dấu vân tay điểm chỉ của cụ Tứ trong “Văn tự bán hoa màu và nhượng đất” ngày 20/4/1981 có phải là dấu vân tay của cụ Tứ hay không là chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án. Nếu tàng thư căn cước của Công an không lưu dấu vân tay của cụ Tứ và đương sự không xuất trình được thì phải căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sơ và thu thập thêm các tài liệu khác để xem xét giải quyết. Bởi lẽ, các đương sự khai cụ Tứ bán đất họ không biết và không nhất trí. Hơn nữa Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng chưa xem xét năm 1981 thì ao Hợp tác xã có còn quản lý không? Năm nào Hợp tác xã mới trả ao và trả cho ai? để xem tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất ao.


104/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 829
  • 38

Đòi lại nhà cho ở nhờ

14-08-2013

Ngôi nhà số 62 NTN, quận HBT, thành phố HN (sau đây gọi là nhà số 62 NTN) thuộc thửa số 841, tờ bản đồ số 10, diện tích 230m2, mang bằng khoán điền thổ số 120p - Khu Đồn thủy, thuộc quyền sở hữu của cụ Đỗ Huy Đương và cụ Đỗ Thị Vương. Năm 1979, cụ Đương lập di chúc chia ngôi nhà trên cho 5 người con. Ngày 26/12/1959, cha mẹ bà có hợp đồng cho ông BĐ_Nguyễn Quang Mỹ thuê một nửa gian phòng tầng 1 diện tích là 13,5m2 (trước là Gara ô tô), thời hạn thuê là 01 năm, giá thuê là 08đ/tháng, hết hạn hợp đồng hai bên không ký hợp đồng mới, ông BĐ_Mỹ tiếp tục ở. Tháng 12/1975, hai cụ lại cho ông BĐ_Mỹ ở nhờ nốt nửa gian còn lại, đồng thời ông BĐ_Mỹ viết Giấy cam đoan ngày 18/12/1975, thể hiện diện tích cho thuê và cho ở nhờ là 27m2. Từ năm 1981, 1982 đến nay, phía nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Mỹ cùng gia đình trả lại toàn bộ diện tích nhà cho thuê và cho ở nhờ nhưng gia đình ông BĐ_Mỹ không trả


99/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1753
  • 44

Tranh chấp thừa kế

12-08-2013

Cố Còn và cố Ca chết, không để lại di chúc. Các con của các cố sống phân tán, chưa tập trung được để phân chia tài sản của cha mẹ để lại. Năm 1998, cụ BĐ_Phi (một trong 5 người con của các cố) tự ý kê khai đất, mà không báo cho anh em biết. Ngày 20/12/1999, hộ cụ BĐ_Nguyễn Tấn Phi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 23.254m2. Cụ và các đồng thừa kế khác đã nhiều lần yêu cầu cụ BĐ_Phi chia tài sản của cha mẹ để lại cho anh em, nhưng cụ BĐ_Phi không đồng ý. Do đó, cụ khởi kiện và yêu cầu chia tài sản


96/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 330
  • 11

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

26-07-2013

Năm 1999, bà kê khai, đăng ký nhà đất theo quy định. Quá trình ở, bà khai hoang, lấn chiếm rạch, nên bị xử phạt hành chính theo Quyết định số 7460/QĐ-UB-QLĐT ngày 31/7/2003 của Chủ tịch LQ_Ủy ban nhân dân quận X. Năm 2002, ông LQ_Phan Tấn Trân (anh ruột của bà và ông BĐ_Ba) cho bà tiền sửa chữa nhà, còn lần sửa chữa nhà năm 2006 là tiền của bà; cả hai lần đều do ông Nguyễn Văn Chiêu (người quen của ông BĐ_Ba) sửa chữa. Bà làm nghĩa vụ thuế nhà đất từ năm 1990 cho đến nay. Nay toàn bộ 417,95m2 đất có nhà nêu trên thuộc diện di dời giải tỏa. Vì vậy, đề nghị Tòa án công nhận bà là chủ sở hữu nhà đất nêu trên để bà được nhận toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ di dời và tái định cư là 4.239.073.600 đồng.


90/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 611
  • 20

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

22-07-2013

Ngày 19/4/1994 chồng bà là ông Chang Shin Gung ký hợp đồng cho ông BĐ_Vương Kinh và vợ là bà BĐ_Mã Lệ Ly vay 1.300 lượng vàng SJC bốn số chín. Hợp đồng có thỏa thuận lãi suất tính theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay tiền ngoại tệ có thời hạn từ 06 tháng trở lên; thời hạn trả nợ là không có thời hạn, khi nào bên cho vay cần lấy lại số vàng thì báo cho bên vay trước 02 tháng. Ngày 28/01/2004 ông Chang Shin Gung chết, để lại di chúc chỉ định cho vợ là bà NĐ_Leung Woo Hye là người duy nhât được ủy thác và thực hiện bản di chúc. Theo di chúc, bà NĐ_Leung Woo Hye được quyền giải quyết mọi tài sản của ông Chang Shin Gung bao gồm động sản và bất động sản ở bất kỳ nơi đâu và thuộc bất kỳ tính chất, chủng loại nào. Vào các ngày 02/5/2007, 28/5/2007 và ngày 18/6/2007 đại diện cho bà NĐ_Leung Woo Hye đã gửi thư yêu cầu ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly thanh toán khoản vay và lãi suất trong Hợp đồng vay vàng ngày 19/4/1994 nhưng tính đến nay ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly vẫn chưa thanh toán