cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

148/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1134
  • 52

Tranh chấp thừa kế

17-12-2013

Năm 1998, ông BĐ_Sang làm ăn thất bại, ly hôn vợ, không còn nhà ở, nên bà đồng ý cho ông BĐ_Sang và con ông BĐ_Sang về ở cùng. Sau đó, bà và ông BĐ_Sang mâu thuẫn, bà đã phải đi ở nơi khác. Bà yêu cầu chia thừa kế phần di sản của cụ Sến theo pháp luật và phần di sản của cụ Chín theo di chúc, xin được quản lý toàn bộ tài sản, hoàn lại giá trị cho các đồng thừa kế khác phần họ được hưởng của cụ Sến. Về tiền công sức nuôi dưỡng và tiền mai táng cho cha mẹ, bà không yêu cầu giải quyết. Bà công nhận căn nhà này, ông BĐ_Sang và ông LQ_Tú có sửa chữa một phần. Tại phiên tòa phúc thẩm bà đồng ý hoàn lại cho ông BĐ_Sang, ông LQ_Tú tiền chi phí sửa chữa nhà.


547/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 779
  • 20

Tranh chấp thừa kế

29-11-2013

Bà Phùng Thị Ngọc Thúy (chết ngày 16/7/1996) và ông Trần Sơn (chết năm 1989) có một người con chung là ông BĐ_Phùng Ngọc Hưng. Bà NĐ_Phùng Thị Ngọc Thư là con nuôi của bà Phùng Thị Ngọc Thúy. Quá trình chung sống, bà NĐ_Thư có quan hệ tình cảm với một người khác nhưng bị bà Thúy phản đối nên bà NĐ_Thư chuyển đi nơi khác sống. Ngày 16/7/1996, bà Thúy chết. Năm 2000, ông BĐ_Hưng bán căn nhà 1B LTR với giá 265 lượng vàng SJC. Ngoài ra, vào năm 1964 bà Thúy còn mua một căn nhà số 68/9 TQK, phường TĐ nhưng để cho chị ruột của bà Thúy là bà BĐ_Phùng Thị Chi quản lý. Năm 2006, bà BĐ_Chi đại diện thừa kế của bà Thúy khai trinh lại UBND quận I và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà này. Do đó, bà NĐ_Thư khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Chi trả lại căn nhà cho những người thừa kế của bà.Thúy là bà NĐ_Thư và ông BĐ_Hưng, đồng thời vêu cầu ông BĐ_Hưng chia thừa kế đối với phần di sản của bà Thúy để lại, nhưng do ông BĐ_Hưng đã bán căn nhà 1B LTR nên bà NĐ_Thư yêu cầu được nhận toàn bộ căn nhà 68/9 Trần Hưng Đạo, bà NĐ_Thư đồng ý hỗ trợ chi phí dời cho bà BĐ_Chi là 200.000.000 dồng.


499/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1499
  • 34

Tranh chấp thừa kế

19-11-2013

Theo Đơn khởi kiện ngày 23/10/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Xuân Phục trình bày: Cha mẹ ông là cụ Nguyễn Yến và cụ Nguyễn Thị Nha, sinh được 06 người con, 03 người con đã chết từ nhỏ nên còn lại 03 người là: Nguyễn Xuân Đức, chết năm 1972 (có vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Thư và con gái là chị LQ_Nguyễn Thị Lai), NĐ_Nguyễn Xuân Phục và BĐ_Nguyễn Xuân Bình. Khi còn sống, cha mẹ ông tạo lập được các tài sản như nhà ở (hiện nay đang do ông BĐ_Bình ở), ruộng vườn, trong đó có vườn dừa gồm 81 cây dừa trên diện tích đất là 6„426m2 với giới cận: Đông giáp suối; Tây giáp Quốc lộ 1A; Nam giáp đất ông Trần Xuân Thức; Bắc giáp đất ông Nguyễn Ngọc Hồ tọa lạc tại Long Thạnh, xã XL, thị xã SC, tỉnh PY. Năm 1984, cụ Yến chết không để lại di chúc, tài sản trên do cụ Nha quản lý. Năm 1998, cụ Nha họp gia đình cùng các con là NĐ_Nguyễn Xuân Phục, BĐ_Nguyễn Xuân Bình và cháu LQ_Nguyễn Thị Lai, có người làm chứng chứng kiến. Theo nội dung biên bản cuộc họp (hiện ông BĐ_Bình đang lưu giữ) thi đất vườn được chia 3 phần bằng nhau cho ông NĐ_Phục, ông BĐ_Bình và cháu LQ_Lai, nhưng sau khi họp không chia cụ thể. Sau khI cụ Nha chết (ngày 19/11/2003), ông BĐ_Bình tiếp tục sử dụng, quản lý các tài sản này.


139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1740
  • 24

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-11-2013

Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.


132/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1469
  • 41

Đòi lại nhà cho ở nhờ

28-09-2013

Tại đơn khởi kiện ngày 10/11/2004 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Võ Thị Loan, ông NĐ_Phạm Thành Cần trình bày: Căn nhà 129 TTV, phường 11, quận Y trên 158m2 đất do ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan mua của cụ LQ_Châu Kỉnh Sang với giá 50 lượng vàng theo hợp đồng mua bán ngày 4/12/2001. Trước khi bán căn nhà trên, cụ LQ_Sang có báo cho ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan biết rõ tình trạng nhà có 03 hộ gồm: cụ BĐ_Trương Mai, ông BĐ_Ô Bỉnh Thứ và bà Ô Huê Hưng đang ở nhờ tại nhà. Do đó, khi mua nhà, ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan phải thương lượng với họ hoặc nhờ Tòa án giải quyết thì mới được nhận nhà. Ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan đồng ý mua và có đến nhà 129 TTV gặp cụ BĐ_Mai, bà Hưng thông báo về việc ông, bà có ý định mua căn nhà này; cụ BĐ_Mai và bà Hưng không có ý kiến gì. Sau đó, ông NĐ_Cần, bà NĐ_Loan tiến hành hợp đồng mua bán nhà với cụ LQ_Sang.