149/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 608
- 48
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ NĐ_Mai Thị Diệu trình bày: Ngày 11/12/1974, cụ Bùi Mã Nhi (chồng của cụ NĐ_Diệu, chết năm 1975, không để lại di chúc) nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quang Trung 1,7ha đất tại ấp Nghĩa Thành, GN (nay là tổ dân phố 2, phường NT, thị xã GN, tỉnh ĐN). Sau khi nhận chuyển nhượng đất vợ chồng cụ sử dụng đất để canh tác trồng cà phê, mít, điều. Quá trình sử dụng đất, cụ chia một phần đất cho những người con gái của cụ; phần đất còn lại (không rõ diện tích cụ thể do không đo đạc) năm 1992 cụ giao cho vợ chồng ông BĐ_Phúc mượn để canh tác và năm 2002 ông BĐ_Phúc xây nhà trên đất để thờ phụng tổ tiên.
148/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1134
- 52
Năm 1998, ông BĐ_Sang làm ăn thất bại, ly hôn vợ, không còn nhà ở, nên bà đồng ý cho ông BĐ_Sang và con ông BĐ_Sang về ở cùng. Sau đó, bà và ông BĐ_Sang mâu thuẫn, bà đã phải đi ở nơi khác. Bà yêu cầu chia thừa kế phần di sản của cụ Sến theo pháp luật và phần di sản của cụ Chín theo di chúc, xin được quản lý toàn bộ tài sản, hoàn lại giá trị cho các đồng thừa kế khác phần họ được hưởng của cụ Sến. Về tiền công sức nuôi dưỡng và tiền mai táng cho cha mẹ, bà không yêu cầu giải quyết. Bà công nhận căn nhà này, ông BĐ_Sang và ông LQ_Tú có sửa chữa một phần. Tại phiên tòa phúc thẩm bà đồng ý hoàn lại cho ông BĐ_Sang, ông LQ_Tú tiền chi phí sửa chữa nhà.
564/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 900
- 53
Nguyên đơn bà NĐ_Đặng Thị Mỹ Dư trình bày: Năm 1985, hộ gia đình bà có 3 nhân khẩu gồm bà, cha bà là Cụ Phùng Văn Nhơn (chết năm 1997) và em trai là BĐ_Đặng Văn Như được tập đoàn 1, thị trấn TĐ giao khoán tổng cộng 4.500m2 đất nằm ở phường LT hiện nay, tương ứng mỗi nhân khẩu được giao là 1.500m2. Trong 4.500m2 này, tập đoàn khấu trừ 800m2 đất vườn nằm ở phường LC hiện nay, còn lại 3.700m2; nằm bên cạnh có 600m2 đất, không đủ tiêu chuẩn khoán cho hộ khác nên tập đoàn giao luôn cho hộ gia đình bà. Phần đất của cụ Nhon đã bán hết từ năm 1996, lấy tiền xây dựng căn nhà mà hiện nay ông BĐ_Như đang sử dụng.
499/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1499
- 34
Theo Đơn khởi kiện ngày 23/10/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Xuân Phục trình bày: Cha mẹ ông là cụ Nguyễn Yến và cụ Nguyễn Thị Nha, sinh được 06 người con, 03 người con đã chết từ nhỏ nên còn lại 03 người là: Nguyễn Xuân Đức, chết năm 1972 (có vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Thư và con gái là chị LQ_Nguyễn Thị Lai), NĐ_Nguyễn Xuân Phục và BĐ_Nguyễn Xuân Bình. Khi còn sống, cha mẹ ông tạo lập được các tài sản như nhà ở (hiện nay đang do ông BĐ_Bình ở), ruộng vườn, trong đó có vườn dừa gồm 81 cây dừa trên diện tích đất là 6„426m2 với giới cận: Đông giáp suối; Tây giáp Quốc lộ 1A; Nam giáp đất ông Trần Xuân Thức; Bắc giáp đất ông Nguyễn Ngọc Hồ tọa lạc tại Long Thạnh, xã XL, thị xã SC, tỉnh PY. Năm 1984, cụ Yến chết không để lại di chúc, tài sản trên do cụ Nha quản lý. Năm 1998, cụ Nha họp gia đình cùng các con là NĐ_Nguyễn Xuân Phục, BĐ_Nguyễn Xuân Bình và cháu LQ_Nguyễn Thị Lai, có người làm chứng chứng kiến. Theo nội dung biên bản cuộc họp (hiện ông BĐ_Bình đang lưu giữ) thi đất vườn được chia 3 phần bằng nhau cho ông NĐ_Phục, ông BĐ_Bình và cháu LQ_Lai, nhưng sau khi họp không chia cụ thể. Sau khI cụ Nha chết (ngày 19/11/2003), ông BĐ_Bình tiếp tục sử dụng, quản lý các tài sản này.
139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1744
- 24
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.