380/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2932
- 78
Tranh chấp hợp đồng mua bán hóa chất
Ngày 05/11/2003 NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường có văn bản yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall khắc phục hậu quả thiệt hại nhưng không được BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall giải quyết. Do đó, NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã làm đơn khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall phải bồi thường thiệt hại cho NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường số tiền là 121.000USD.
56/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1159
- 13
Tranh chấp hợp đồng thuê tài chính
Nguyên đơn là NĐ_Công ty cho thuê tài chính ATeem Việt Nam trình bày: ngày 18/02/2004, NĐ_Công ty cho thuê tài chính ATeem Việt Nam và BĐ_DNTN SX Hải Anh có ký hợp đồng cho thuê tài chính số K2004014 với nội dung: NĐ_Công ty cho thuê tài chính ATeem Việt Nam cho BĐ_DNTN SX Hải Anh thuê một máy thêu vi tính loại 330MM X 550MM, 9 màu, 20 đầu, Model SWF/C WE920-55, xuất xứ Hàn Quốc, giá trị 50.000 USD. Thời hạn thuê: 60 tháng (bao gồm 3 tháng ân hạn). Ngày bắt đầu thuê: 25/7/2004. Giá trị thuê: 51.996,24 USD. Lãi suất thuê/ năm: LIBOR (3 tháng) + 2,4%.
411/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 591
- 14
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Năm 1965, ông NĐ_Nguyễn Văn Nhiên kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, BĐ_Thứ, BĐ_Sang. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sang, BĐ_Nguyễn Xuân Thứ sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sang nói với ông cho anh BĐ_Sang mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sang thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sang lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sang đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sang và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sang, anh BĐ_Thứ phải trả lại nhà đất trên cho ông
304/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1277
- 36
Bên cạnh đó Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn có sai sót sau: Ông Đỗ Kiểm chết trước cụ Phan Thị Đạt nên trong trường hợp này các anh chị LQ_Đỗ Thị Linh, LQ_Đỗ Thị Hà, LQ_Đỗ Thị Sa, LQ_Đỗ Thị Hảo, LQ_Đỗ Thị Châu, LQ_Đỗ Thị Trà, LQ_Đỗ Thị Trân, BĐ_Đỗ Quang Vũ, BĐ_Đỗ Quang Tâm, LQ_Đỗ Thị Kim Thư là người thừa kế thế vị di sản của cụ Phan Thị Đạt. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà LQ_Võ Thị Hoa cũng được hưởng di sản thừa kế của cụ Đạt là không đúng pháp luật. Đất tranh chấp gồm có đất ở và đất trồng cây lâu năm có giá trị khác nhau. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chia theo hiện vật mỗi phần thừa kế 1.333,2m2 mà chưa tính đến vấn đề giá trị là ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế được nhận đất có giá trị thấp. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà NĐ_Đỗ Thị Điệp, bà NĐ_Đỗ Thị Cẩm có nghĩa vụ thanh toán cho bà LQ_Võ Thị Hoa và 10 người con giá trị 31,2m2 đất chênh lệch theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh TN quy định mà không theo giá thị trường là không phù hợp pháp luật.
25/2014/DS–GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 419
- 17
Ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố đều khai rằng ông bà không biết việc cụ Hưng chuyển nhượng đất cho bà NĐ_Na và bà NĐ_Na được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất trên lúc nào ông bà cũng không biết. Vì vậy, cần xác định rõ phần đất nào là di sản của cụ Kỉnh, phần đất nào là di sản của cụ Hưng sau khi trừ phần cụ Hưng đã cho ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố cất nhà ở; ai là người trực tiếp quản lý sử dụng phần di sản của cụ Kỉnh để lại?. Những vấn đề trên chưa được xác định, xác minh làm rõ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia thừa kế diện tích 1.160m2 đất của cụ Kỉnh và cụ Hưng cho các đồng thừa kế của hai cụ là không đúng; còn Tòa án cấp phúc thẩm xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của cá nhân cụ Hưng và việc cụ Hưng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà NĐ_Na phù hợp với quy định của pháp luật, từ đó buộc ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố phải dỡ nhà trả lại diện tích đất mà cụ Hưng đã để cho ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố cất nhà ở là không đúng