194/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2572
- 30
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Trong đơn khởi kiện ghi ngày 16/12/2014; bản khai ngày 12/01/2015; biên bản hòa giải không thành vào các ngày 27/3/2015, 15/4/2015, 12/5/2015 thì nguyên đơn – bà NĐ_Tô Thị Thu Thanh trình bày: Gia đình bà và gia đình bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Dung – ông BĐ_Phạm Trọng Đinh là hàng xóm thân thiết với nhau. Trong khoảng thời gian từ ngày 05/8/2012 đến ngày 30/9/2013, bà có cho vợ chồng bà LQ_Dung – ông BĐ_Đinh vay nhiều lần tiền, mỗi lần hai bên đều có lập giấy vay tiền. Tuy nhiên, đến ngày 30/9/2013 thì hai bên tổng kết toàn bộ số nợ nên lập lại Hợp đồng mượn tiền với tổng số tiền vay là 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng. Theo hợp đồng mượn tiền này, bà LQ_Dung – ông BĐ_Đinh cam kết đến ngày 30/5/2014 sẽ giao trả đủ số tiền vay 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng và tiền lãi. Hợp đồng mượn tiền do chính tay bà LQ_Dung viết và ký tên trước mặt bà. Riêng ông BĐ_Đinh thì bà không chắc, vì lúc đó sau khi lập xong Hợp đồng mượn tiền và ký tên, bà LQ_Dung đã cầm Hợp đồng mượn tiền vào trong phòng cho ông BĐ_Đinh ký rồi sau đó đưa lại cho bà. Vì vậy, bà không trực tiếp nhìn thấy ông BĐ_Đinh ký tên và không có đủ cơ sở để khẳng định chữ ký, chữ viết trong bản hợp đồng là của ông BĐ_Phạm Trọng Đinh.
181/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 327
- 6
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Vào năm 2012 do quen biết, bà NĐ_Phạm Thị Hồng Vĩ cho ông BĐ_Nguyễn Văn Ngân vay 700.000.000 đồng, thời hạn vay 6 tháng, không có lãi. Để làm tin, ngày 16/6/2012 ông BĐ_Ngân và bà NĐ_Vĩ ký kết hợp đồng mua bán căn nhà số B334 Bis, khu phố 3, phường ĐHT, Quận X, Thành phố HCM. Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Đất Việt số 00001442, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD.
163/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 523
- 10
Ngày 17/01/2001 ông NĐ_Thân mua một căn nhà lá nhỏ và chuồng heo của bà LQ_Ngô Thị Vy có tổng diện tích 87,5 m2 với giá 18.000.000 đồng, việc mua bán bằng giấy tay,ông đã giao đủ tiền. Ông NĐ_Thân đã sử dụng nhà và chuồng heo được một năm thì không sử dụng nữa, sau đó nhà bị hư hỏng, hiện trạng hôm nay đất trống nhưng còn dấu tích của cột và tường chuồng heo. Tuy nhiên ông NĐ_Thân có rào đất bằng kẽm gai và có thường ghé thăm đất. Trong thời gian sử dụng nhà, nhà này không có đường đi ngay trước mặt mà ông NĐ_Thân phải đi nhờ đường đi trên đất của bà LQ_Vy. Tháng 12/2008 ông NĐ_Thân phải trả tiền cho bà Lê Thị Mới để được sử dụng đường đi chung với bà Mới, do vậy nay lô đất của ông NĐ_Thân là mặt tiền của lối đi chiều ngang 3m tráng xi măng.
161/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 392
- 9
Vào khoảng năm 2009 ông NĐ_Hồ Quang Tú và bà NĐ_Hứa Đoan Trinh có thỏa thuận với vợ chồng ông BĐ_Thái Trung Tân và bà BĐ_Hồ Đan Thịnh cùng góp tiền mua 420m2 đất, sau khi nhận chuyển nhượng, ông BĐ_Tân, bà BĐ_Thịnh có trách nhiệm tách thửa để sang tên cho ông Tuyến, bà NĐ_Trinh. Ngày 17/5/2013, hai bên ký bản cam kết, nội dung ông BĐ_Tân, bà BĐ_Thịnh có trách nhiệm lập thủ tục tách thửa sang tên quyền sử dụng phần đất 160m2 thuộc thửa 681 tờ bản đồ 56 cho vợ chồng ông Tuyến. Tuy nhiên sau khi tách thửa, vợ chồng ông Tòan đã nhuyền nhượng đất cho người khác. Khi ông Tuyến phát hiện thì chỉ còn phần đất 98,6m2 thuộc thửa 695 tở bản đồ 56, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sổ hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số vào sổ CH02605 ngày 20/8/2013 cấp cho bà BĐ_Hồ Đan Thịnh, là chưa chuyển nhượng cho người khác.
122/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 570
- 4
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Bà NĐ_Hoàng Thị Rương và bà BĐ_Nguyễn Thị Chi gần nhà nhau nên bà NĐ_Rương đã tin tưởng cho bà BĐ_Chi vay tiền từ tháng 7/2010 đến khoảng tháng 5/2014, với ba hình thức vay là trả lãi hàng tháng lãi suất 5%/ 1 tháng, vay mượn góp hàng ngày và thông qua góp hụi. Khi cho vay không có viết giấy nợ. Bà BĐ_Chi đã không trả nợ nên Bà NĐ_Rương đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Chi trả lại cho bà NĐ_Rương số tiền là 2.215.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn xác định khi bà NĐ_Rương bị bệnh thì hai bên gút nợ là 1.840.000.000đồng (tính luôn tiền hụi), khi đó bà BĐ_Chi hứa trả tiền lãi là 3.700.000 đồng/ngày và trả tiền góp lại tiền hụi 2.600.000 đồng/ngày, nhưng bà BĐ_Chi không thực hiện đúng lời hứa, bà BĐ_Chi trả không đều và mỗi lần trả không đủ tiền như thỏa thuận, mỗi lần trả tiền bà BĐ_Chi đều viết giấy để lại. Nay bà NĐ_Rương chỉ kiện đòi bà BĐ_Chi 1.840.000.000 đồng, không tính lãi.