07/2016/HSST: Buôn lậu gỗ Sơ thẩm Hình sự
- 836
- 13
Mở rộng điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của Trần Văn Thống thu giữ thêm 8,68 m3 gỗ trắc gai (trắc trung). Thống khai số gỗ này mua của Nguyễn Thị Thanh Trang nhưng không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp và không xác định được mua của ai
165/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1444
- 37
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 1996, bà NĐ_Hoa chuyển nhượng 600m2 đất cho anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn giá 10 chỉ vàng 24k; lúc này đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên chỉ làm giấy tay, ông NĐ_Ngân và bà NĐ_Hoa đứng tên trong sổ bộ đất, hai bên đã giao vàng và đất xong nhưng không có làm biên nhận, hai bên thỏa thuận chi phí làm thủ tục chuyển nhượng do anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn chịu, anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn đã sử dụng diện tích đất này từ đó đến nay. Khoảng tháng 9, 10/1995 gia đình ông NĐ_Ngân có cho ông LQ_Ngà, bà LQ_Linh mượn diện tích đất là 1.600m2 tọa lạc tại tổ 35, khóm 4, phường 6, thành phố CL để cố cho vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Linh, chị BĐ_Trần Thị Tuấn giá 25 chỉ vàng 24k và thỏa thuận khi nào có vàng sẽ chuộc lại đất. Việc thỏa thuận cầm cố không có làm giấy tờ.
154/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1281
- 49
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nhưng sau khi nhận cọc và tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng thì cơ quan quản lý đô thị cho biết chỉ giới xây dựng đường HVT là 8m, vị trí hẻm dưới bên hông nhà là 3m. Vị trí này khi xây dựng phải vạt góc theo quy chuẩn để đảm bảo tầm nhìn là 3m x 3m, nên phía bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn cho rằng phần đất trên khi xây dựng sẽ bị mất diện tích phía trước và phía hông so với hiện trạng thực tế do nằm trong lộ giới và hẻm giới. Nhưng khi thỏa thuận giao kết và đặt cọc, phía ông BĐ_Sinh và bà BĐ_Linh không cung cấp thông tin này cho bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn biết, từ đó bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn cho là bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn bị nhầm lẫn nên yêu cầu tòa án hủy bỏ giao kết hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/4/2010 giữa bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn với bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh; đồng thời buộc bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh trả lại 200.000.000 đồng tiền đặt cọc cho bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn.
97/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 586
- 18
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn Sáu và cụ Trần Thị Mậu. Những người con của hai cụ gồm: LQ_Nguyễn Thị Hương, LQ_Nguyễn Thị Vy, Nguyễn Văn Mách (chết năm 2007), Nguyễn Thị Bảy (chết năm 2002), LQ_Nguyễn Văn Tịnh, BĐ_Nguyễn Văn An, NĐ_Nguyễn Văn Hân, LQ_Nguyễn Văn Đương. Cụ Mậu chết năm 1976. Ngày 22/04/1992 cụ Nguyễn Văn Sáu lập “Tờ phân chia di sản” cho các con. Theo tờ phân chia này cụ Sáu chia cho các con trai (không chia đất cho các con gái) các phần đất ở nhiều nơi khác nhau, trong đó có một phần đất 3600m2, tọa lạc ấp Phú Xuân A, xã PH A, huyện CT, tỉnh HG thì cụ Sáu chia làm hai. Diện tích 1800m2 giáp với Tư Tính cụ Sáu chia cho LQ_Nguyễn Văn Đương, phần 1800m2 còn lại có một cái nhà cụ Sáu không phân chia mà để lại dưỡng già, sau khi cụ chết thì tùy vào các con ai trông coi và thờ phượng thì được sử dụng, không được sang bán. Sau khi cụ Sáu chết được 3 tháng thì ông NĐ_Hân đã vào quản lý, canh tác đối với phần đất hương hỏa trên, có diện tích khoảng 1800m2.
43/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 276
- 18
NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Hoàng Xuân Linh (tức Láy) trình bày: Bố của ông là cụ Hoàng Văn Sông (tử sỹ năm 1946). Sau khi bố ông mất, gia đình ông có hai nhân khẩu là ông và mẹ ông - cụ Hoàng Thị San. Năm 1959, mẹ ông đưa khoảng 20.000m2 đất vào Hợp tác xã Đồng Tiến, xã Thanh Bình, huyện NR, tỉnh BK (nay là xã KL, huyện NR, tỉnh BK). Năm 1960, cụ San chết, năm 1961 ông đi học xa nhà nên toàn bộ đất đai do Hợp tác xã quản lý. Năm 1993, Hợp tác xã nêu trên tự giải thể, ông về nhận lại đất của cụ San, khi đi nhận đất có ông Hoàng Văn Cai là người cùng mẹ khác cha với ông đi cùng, sau đó ông cho ông Cai mượn toàn bộ đất của cụ San nhưng giữa hai người không làm thủ tục, giấy tờ gì.