1329/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1928
- 19
Ông NĐ_Lương Ngọc Tánh và bà BĐ_Lâm Thu Khuyên kết hôn hợp pháp và Ủy ban nhân dân Quận 3, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07 quyển số 01 ngày 08/01/1994. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2005 thì bắt đầu có dấu hiệu bất hòa và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Năm 2007 bà BĐ_Khuyên tự ý làm hồ sơ đi Anh quốc và bỏ đi đến nay không về. Hơn 01 năm nay bà BĐ_Khuyên cũng không còn liên lạc về. Ông được biết bà BĐ_Khuyên đã quyết định bỏ chồng chọn cuộc sống riêng nên ông yêu cầu ly hôn với bà BĐ_Khuyên để chấm dứt sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa hai bên.
1231/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 427
- 2
Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2015 và tại bản tự khai ngày 13/7/2015 bà NĐ_Trình Thị Thu Thảo trình bày: Năm 2008 được người quen giới thiệu nên bà và ông BĐ_Wong Bane Yuk Narm có qua lại tìm hiểu, đến ngày 05/5/2014 bà và ông BĐ_Wong Bane Yuk Narm tự nguyện kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố HCM theo giấy chứng nhận kết hôn số 1090, quyển số 06. Sau khi kết hôn chỉ một tuần, ông BĐ_Wong Bane Yuk Narm trở về Hoa Kỳ, từ đó đến nay ông không trở về Việt Nam, cũng không còn liên lạc với bà. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông BĐ_Wong Bane Yuk Narm.
1388/2015/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 992
- 8
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên trước đây bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Niên là Cửa hàng trưởng thuộc BĐ_Công ty Cổ phần vàng bạc đá quý SJC Linh Minh (sau đây gọi tắt là Công ty), ông LQ_Trần Văn Diêu là Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của BĐ_Công ty Cổ phần vàng bạc đá quý SJC Linh Minh. Từ năm 2010, Công ty rơi vào hoàn cảnh khó khăn chung của các doanh nghiệp trong nước, việc vay vốn Ngân hàng không thể thực hiện vì không có tài sản đảm bảo nên Công ty có chủ trương huy động vốn của nhân viên. Sau nhiều lần, ông LQ_Trần Văn Diêu là chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm giám đốc Công ty, nhân danh Công ty có đề nghị với bà NĐ_Niên cho Công ty vay vốn 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) để đầu tư các dự án ngắn hạn. Trước khó khăn thật sự của Công ty, bà NĐ_Niên đã lấy căn nhà số 09 đường Sầm Sơn, Phường H, quận TB để thế chấp vay khoản tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) để cho Công ty vay lại.
1022/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1737
- 28
Theo đơn khởi kiện ngày 12/3/2012 (nộp cho Tòa án vào ngày 13/3/2014) và bản tự khai ngày 16/4/2014, bà NĐ_Nguyễn Thị Nhiên trình bày như sau: Bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew tự nguyện kết hôn với nhau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 4282, quyển số 17 ngày 29/12/2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew chung sống được 08 tháng. Trong quá trình chung sống, do chưa tìm hiểu nhau nhiều trước khi kết hôn và bất đồng ngôn ngữ, bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew đã phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Tháng 8/2012, ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew trở về Nigeria và không còn liên lạc với bà. Đầu năm 2014, bà có liên lạc được với ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew và thông báo về việc bà yêu cầu ly hôn nhưng ông không có ý kiến. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew.
917/2015/HN-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 684
- 20
Yêu cầu xác định cha cho con
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của ông NĐ_Phu Phúc trình bày: Ông và bà BĐ_Đoàn Thị Kim Lộc có tìm hiểu, quen biết nhau vào khoảng năm 2005. Ông đã nhiều lần về Việt Nam chơi, du lịch và quyết định tiền tới hôn nhân với bà BĐ_Lộc. Năm 2006 ông về Việt Nam ở cùng bà BĐ_Lộc một thời gian thì được bà BĐ_Lộc cho biết là có thai. Do ông và bà BĐ_Lộc chưa đủ hồ sơ nên chưa thể đăng ký kết hôn với nhau. sau đó, do công việc ngày 06/10/2007 ông xuất cảnh về Mỹ.