900/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1536
- 34
Tại đơn khởi kiện ngày 18/3/2014, bản tự khai bổ sung ngày 16/4/2014, bà NĐ_Lôi Yến Tú trình bày: Bà và ông LQ_Tsai Chang Lin tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 3964, quyển số 15 do Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp ngày 23/11/201. Sau khi kết hôn tháng 6/2012 bà cùng ông LQ_Tsai Chang Lin qua Đài Loan sinh sống. Tháng 11/2012, hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bà bị bệnh thoái hóa điểm vàng ở mắt, có khả năng di truyền cho con nên ông LQ_Tsai Chang Lin không cho bà có con. Ông LQ_Tsai Chang Lin gây gổ, đánh đập và buộc bà làm đơn xin ly hôn. Bà không đồng ý thì ông LQ_Tsai Chang Lin đuổi bà ra khỏi nhà. Bà ở nhà của chị gái ở Đài Loan trong 06 tháng thì về Việt Nam ở cho đến nay. Nay tình cảm của bà với ông LQ_Tsai Chang Lin không còn nên bà yêu cầu xin ly hôn.
880/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1521
- 35
Nguyên đơn trình bày: Cha mẹ bà là ông Cao Ngũ (chết năm 1968) và bà Cao Thị Cẩn (chết năm 2001). Ông Ngũ và bà Cẩn có 06 người con là LQ_Cao Quí Ẩn, NĐ_Cao Thị Tân, BĐ_Cao Tấn Biết, LQ_Mickey Cao (LQ_Cao Hình), LQ_Cao Thị Viên và LQ_Cao Sinh. Ông Ngũ, bà Cẩn chết không để lại di chúc. Khi còn sống, bà Cẩn có tạo dựng được căn nhà số 782 NX, ấp LH, phường LTM, Quận G, Thành phố HCM trên diện tích đất khuôn viên là 758,5m2. Bà Cẩn và các con cư trú tại đây. Vào năm 1980, ông LQ_Cao Quí Ẩn lấy vợ ra ở riêng và ông LQ_Cao Hình đi nước ngoài. Năm 1998, ông BĐ_Cao Tấn Biết lấy vợ là bà Võ Thị Diệu và đi ở nơi khác, sau khi bà Cẩn chết thì ông BĐ_Biết về ở nhà này, bà và bà LQ_Viên phải đi khỏi nhà.
844/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1154
- 11
Theo đơn khởi kiện ngày 23/01/2013 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn – ông NĐ_Lý Vĩ Xoăn trình bày: Nhà và đất tọa lạc tại số 199/17 LQS, Phường B, Quận X, Thành phố HCM là tài sản của ông Đại Hoàng (chết năm 1993, không có di chúc) và bà Lý Phước Tiêu (chết năm 2011, không có di chúc). Năm 2006, bà Tiêu và những người con gồm ông và các ông bà BĐ_Đại Vĩ Chánh, ông BĐ_Đại Vĩ Cầm, LQ_Dan Lữ, Đại Vĩ Quốc (Đại Vị Quốc) và LQ_Đại Tú Quỳnh khai nhận di sản thừa kế được Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số AC989561, vào sổ cấp giấy chứng nhận số HO1330/2006 ngày 30/8/2006.
844/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2402
- 24
Theo đơn khởi kiện ngày 23/01/2013 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn – ông NĐ_Lý Vĩ Xoăn trình bày: Nhà và đất tọa lạc tại số 199/17 LQS, Phường B, Quận X, Thành phố HCM là tài sản của ông Đại Hoàng (chết năm 1993, không có di chúc) và bà Lý Phước Tiêu (chết năm 2011, không có di chúc). Năm 2006, bà Tiêu và những người con gồm ông và các ông bà BĐ_Đại Vĩ Chánh, ông BĐ_Đại Vĩ Cầm, LQ_Dan Lữ, Đại Vĩ Quốc (Đại Vị Quốc) và LQ_Đại Tú Quỳnh khai nhận di sản thừa kế được Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số AC989561, vào sổ cấp giấy chứng nhận số HO1330/2006 ngày 30/8/2006
716/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1792
- 28
Theo đơn khởi kiện ngày 16/4/2007, các lời khai ông Lưu Chí Dũng là đại diện theo ủy quyền cho bà NĐ_Nguyễn Thị Cẩm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Kim Mong trình bày: Căn nhà 6/3 BTX, Phường X, quận TB, Thành phố HCM, nguồn gốc căn nhà này là của ông Nguyễn Văn Tấn (chết 1978). Ông Tấn có 04 người con: NĐ_Nguyễn Thị Cẩm, LQ_Nguyễn Văn Niên, Nguyễn Văn Lạc, LQ_Nguyễn Kim Mong. Hiện nay, bà NĐ_Cẩm (chết 2011), ông Lạc (chết 1990 hoặc 1991). Trước đây bà NĐ_Cẩm ủy quyền cho ông nhưng năm 2011 bà NĐ_Cẩm chết. Nay ông LQ_Mong có ủy quyền cho ông yêu cầu: ông BĐ_Cung là con của bà Lê Xuân Hoa trả lại căn nhà trên. Trước đây ông Tấn có cho thuê không biết có hợp đồng hay không nhưng bà Hoa có kê khai năm 1977. Với tiền thuê 500 đồng/1 tháng tiền chế độ cũ, không có thế chân, cho thuê không có thời hạn, không lấy tiền nhà từ sau giải phóng năm 1975. Năm 1983 bà Hoa chết nguyên đơn đòi lại nhà.Tình trạng nhà cho thuê lúc đó là nhà cấp 4: nhà tường, mái tôn, diện tích 36 m2.