21/2014/DS-GĐT: Ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 936
- 35
Anh NĐ_Phạm Ngọc Tuấn và chị BĐ_Phùng Thị Minh kết hôn năm 1992 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào tháng 10/1992 tại UBND xã HX, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Ngày 04/02/2009, anh NĐ_Tuấn có đơn xin ly hôn với chị BĐ_Minh. Chị BĐ_Minh xin được đoàn tụ nhưng nếu anh NĐ_Tuấn kiên quyết ly hôn thì chị chấp nhận. Về con chung: Anh chị có 02 con chung, là cháu Phạm Văn Toàn, sinh ngày 08/9/1993 và cháu Phạm Ngọc Thắng, sinh ngày 28/9/2001. Anh NĐ_Tuấn có nguyện vọng được nuôi cháu Toàn, chị BĐ_Minh có nguyện vọng được nuôi hai con và yêu cầu anh NĐ_Tuấn cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Nguyện vọng của cháu Toàn là được ở với mẹ.
09/2014/DS-GĐT: Yêu cầu bồi thường thiệt hại Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 986
- 18
Tháng 11/2001, gia đình bà xây 2 bức tường phía trong nhà (trong chỉ giới mở đường NGT), Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân thị trấn ĐG (nay là BĐ_Ủy ban nhân dân phường ĐG) đã có quyết định xử phạt hành chính và yêu cầu khôi phục lại hiện trạng. Do bà không chấp hành nên BĐ_Ủy ban nhân dân thị trấn ĐG đã tổ chức cưỡng chế. Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện cưỡng chế lại phá dỡ toàn bộ nhà quán bán hàng của bà (gồm cả những phần không có trong nội dung Biên bản vi phạm). Bà đã khởi kiện và khiếu nại đến Tòa án nhân dân và BĐ_Ủy ban nhân dân thành phố HN yêu cầu giải quyết nhiều lần, nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. Tại các buổi hòa giải và làm việc với BĐ_Ủy ban nhân dân phường ĐG, bà yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân phường bồi thường cho bà 05 tỷ đồng (bao gồm thiệt hại về tài sản, tinh thần...).
06/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 840
- 13
Tại đơn khởi kiện ngày 01/9/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là các ông NĐ_Nguyễn Lương Đương, NĐ_Nguyễn Hữu Vân và NĐ_Nguyễn Trung Hải trình bày: Ba hộ gia đình các ông được ông LQ_Nguyễn Lương Phương chuyển nhượng cho thửa đất số 84, tờ bản đồ số 5G-I-24 tại ngách 188/7 VTV, TX, HN. Khi chuyển nhượng, ông LQ_Phương có để lại khoảng 30m2 đất để làm sân và lối đi cho ba hộ gia đình. Ba hộ gia đình các ông đã cam kết về nghĩa vụ và quyền hạn sử dụng lối đi này ngay sau khi các hộ làm nhà ở và xây lát gạch tôn tạo lối đi. Các hộ gia đình đều có ranh giới rõ ràng, khuôn viên ổn định, có tường rào bao quanh. Ngày 29/5/2006, anh BĐ_Dương Anh Tính tự ý đập phá tường rào, trổ cửa bất hợp pháp sang ngõ đi chung của ba hộ các ông. Ủy ban nhân dân phường KT đã lập biên bản và tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do vậy, các ông đề nghị Tòa án xác định lối đi trước cửa nhà số 8, số 10, số 12 là lối đi chung của gia đình các ông. Buộc gia đình anh BĐ_Tính xây dựng lại bức tường phân định ranh giới như hiện trạng ban đầu.
520/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 731
- 23
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, các nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Hồng, bà NĐ_Phan Thị An và bà NĐ_Phan Thị Kiều trình bày: Vợ chồng cụ Phan Tấn Ngọc (chết ngày 04/12/2003 âm lịch), cụ Lâm Thị Bê (chết năm 2001) đều không để lại di chúc; hai cụ có 06 con là: bà LQ_Phan Thị Linh, bà LQ_Phan Thị Duyên, ông BĐ_Phan Thành Lâm, bà NĐ_Phan Thị Hồng, bà NĐ_Phan Thị An và bà NĐ_Phan Thị Kiều. Di sản của các cụ để lại gồm hai phần đất: Một phần đất diện tích 35.730m2 tọa lạc tại ấp Bùng Binh II, xã HT, thành phố CM, tỉnh CM và một phần đất diện tích khoảng 09 công tầm 03m tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã HT, thành phố CM. Cả hai phần đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Phan Tấn Ngọc, hiện do ông BĐ_Lâm đang quản lý, sử dụng. Nay bà NĐ_Hồng, bà NĐ_An và bà NĐ_Kiều yêu cầu chia thừa kế, mỗi người 1/4 trong số đất mà cha mẹ để lại và trừ ra 10.000m2 đất của phần đất tại ấp Bùng Binh II, xã HT giao ông BĐ_Lâm quản lý để làm đất hương hỏa.
519/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 882
- 17
Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Năm 1994, ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Cẩm Hoa chung sống với nhau như vợ chồng (không đăng ký kết hôn). Trong thời gian chung sống với bà BĐ_Hoa, ông NĐ_Bình đã đưa cho bà BĐ_Hoa: - 20 chỉ vàng 24k để bà BĐ_Hoa trả nợ riêng trước khi về chung sống với nhau; - Cho bà BĐ_Hoa 10.000.000đ để tiêu sài trong thời gian chấp hành hình phạt tù (hồ sơ không có tài liệu tù về tội gì, thời hạn bao nhiêu); - Giao cho bà BĐ_Hoa cất giữ tài sản do hai người tạo lập gồm 01 đôi bông tai 10 chỉ vàng, 05 chỉ vàng và 50.000.000đ (không có tài liệu chứng minh giao). Ngoài ra, ông còn nhận chuyển nhượng 18.942m2 đất của bà Chắc Thị Nhớ (nay bà Nhớ đã chết), giá 12 chỉ vàng, nhưng sau đó bà Bảy làm thủ tục đứng tên riêng. Nguồn gốc tiền để mua đất của là do ông trúng vé số và vay mượn của một sô người khác; sau này ông và bà BĐ_Hoa làm ruộng có tiền đã trả nợ tiền vay mua đất.