cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

844/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2397
  • 24

Tranh chấp thừa kế

25-08-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 23/01/2013 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn – ông NĐ_Lý Vĩ Xoăn trình bày: Nhà và đất tọa lạc tại số 199/17 LQS, Phường B, Quận X, Thành phố HCM là tài sản của ông Đại Hoàng (chết năm 1993, không có di chúc) và bà Lý Phước Tiêu (chết năm 2011, không có di chúc). Năm 2006, bà Tiêu và những người con gồm ông và các ông bà BĐ_Đại Vĩ Chánh, ông BĐ_Đại Vĩ Cầm, LQ_Dan Lữ, Đại Vĩ Quốc (Đại Vị Quốc) và LQ_Đại Tú Quỳnh khai nhận di sản thừa kế được Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số AC989561, vào sổ cấp giấy chứng nhận số HO1330/2006 ngày 30/8/2006


631/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 489
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-06-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 12 năm 2006 và đơn xác định yêu cầu khởi kiện ngày 03/01/2013 đại diện ông NĐ_Phạm Hồng trình bày: Ông NĐ_Phạm Hồng cho ông BĐ_Lý Tích Trảnh vay 05 khoản tiền theo 03 giấy biên nhận: 1/ Ngày 28/8/1995 số tiền vay là 40.000.000 đồng, 16 lượng vàng SJC, 10.000 USD. 2/ Ngày 28/9/1995 số tiền vay là 2000 USD. 3/ Ngày 25/11/1996 số tiền vay là 175.000.000 đồng. Khi vay hai bên có thỏa thuận lãi là 2%. Bên bị đơn đã trả cho nguyên đơn tổng cộng 145.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và 02 lượng vàng SJC. Sau đó, ông BĐ_Trảnh và bà LQ_Thủy không trả thêm bất kì khoản tiền nào. Đã nhiều lần nguyên đơn yêu cầu bên bị đơn trả nợ nhưng bị đơn không trả. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền vốn nói trên và số tiền lãi từ tháng 02/1997 đến nay.


630/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1809
  • 31

Đòi lại nhà cho ở nhờ

29-06-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - bà NĐ_Hứa Bửu Liêm trình bày như sau: Nhà và đất tọa lạc tại số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM là của mẹ bà là bà Hứa Anh mua của bà Phạm Thị Giá vào năm 1967 bằng giấy tay (đã thất lạc). Thời điểm đó, bà đứng tên hộ khẩu gia đình. Năm 1975, bà chuyển hộ khẩu về ở chung với mẹ tại số 339 đường 3/2, Quận Y để chăm sóc mẹ bà. Năm 1976, bà làm đơn bảo lãnh cho ông Lưu Quốc Minh là em vợ ông LQ_Ngô Vĩnh Xanh (em trai bà) nhập hộ khẩu vào căn nhà này, gia đình ông Minh cư ngụ từ đó đến nay. Việc cho ông Minh ở nhờ không được thể hiện bằng văn bản nhưng ông Minh có nói khi nào có nhà thì trả lại. Năm 1977, khi kê khai nhà đất, ông Minh khai căn nhà này là của bà Hứa Anh. Năm 1992, bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2000, bà Hứa Anh được LQ_Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9051/2000. Hiện ông Minh đã chết, các con của ông Minh đang sử dụng nhà và không trả lại cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lưu Cẩm Đào và những người đang ở trong căn nhà trả lại nhà đất số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM cho mẹ bà có bà là người đại diện các đồng thừa kế.


630/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 987
  • 3

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

29-06-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - bà NĐ_Hứa Bửu Liêm trình bày như sau: Nhà và đất tọa lạc tại số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM là của mẹ bà là bà Hứa Anh mua của bà Phạm Thị Giá vào năm 1967 bằng giấy tay (đã thất lạc). Thời điểm đó, bà đứng tên hộ khẩu gia đình. Năm 1975, bà chuyển hộ khẩu về ở chung với mẹ tại số 339 đường 3/2, Quận Y để chăm sóc mẹ bà. Năm 1976, bà làm đơn bảo lãnh cho ông Lưu Quốc Minh là em vợ ông LQ_Ngô Vĩnh Xanh (em trai bà) nhập hộ khẩu vào căn nhà này, gia đình ông Minh cư ngụ từ đó đến nay. Việc cho ông Minh ở nhờ không được thể hiện bằng văn bản nhưng ông Minh có nói khi nào có nhà thì trả lại. Năm 1977, khi kê khai nhà đất, ông Minh khai căn nhà này là của bà Hứa Anh. Năm 1992, bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2000, bà Hứa Anh được LQ_Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9051/2000. Hiện ông Minh đã chết, các con của ông Minh đang sử dụng nhà và không trả lại cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lưu Cẩm Đào và những người đang ở trong căn nhà trả lại nhà đất số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM cho mẹ bà có bà là người đại diện các đồng thừa kế.


492/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 317
  • 6

Ly hôn

25-05-2015
TAND cấp tỉnh

Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2014 và bản tự khai ngày 30/7/2014, bà NĐ_Dương Hồ Hạnh trình bày: Bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) tự nguyện kết hôn với nhau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 1444, quyển số 08 ngày 28/5/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chung sống được một thời gian ngắn thì ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) trở về Hoa Kỳ. Từ đó, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chỉ liên lạc qua điện thoại hoặc email nhưng không thường xuyên. Ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) không lần nào về thăm bà tại Việt Nam. Đến nay, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) đã không còn liên lạc với nhau. Do điều kiện sống xa cách, bất đồng ngôn ngữ nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale).