177/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 2801
- 104
Tranh chấp về kỷ luật lao động
BĐ_Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đại An thành lập ngày 21/02/2009, ngay sau khi thành lập bà vào làm việc cho công ty và ký hợp đồng lao động có thời hạn 02 năm từ 01/03/2009 đến 01/03/2011, hết thời hạn trên, công ty tái ký hợp đồng có thời hạn đến 02/03/2013, sau tiếp tục ký hợp đồng không xác định thời hạn từ 03/03/2013 đến nay với chức danh chuyên môn là Thạc sỹ Bản đồ – Viễn thám, chức vụ là Phó Giám đốc công ty, mức lương chính là 9.016.950đ. Ngày 08/07/2013, bà gởi cho công ty bản kiến nghị nêu một số yêu sách yêu cầu công ty thực hiện. Các ngày tiếp theo bà đến công ty làm việc không liên tục, cụ thể: Vào ngày 09, 11, 13 bà đến công ty theo yêu cầu của lãnh đạo công ty làm việc liên quan đến bản yêu sách trên, ngày 10 và ngày 12 tháng 07/2013 nghỉ.
80/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 2662
- 83
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Theo đơn khởi kiện ngày 21/6/2013, Đơn yêu cầu thay đổi nội dung đơn khởi kiện ngày 04/9/2013 và tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn ông NĐ_Lê Hoàng Thanh trình bày: Ông NĐ_Lê Hoàng Thanh vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH sản xuất hàng tiêu dùng Bảo Anh (BĐ_Công ty BiAits) từ tháng 7/2006. Thời gian đầu Công ty ký Hợp đồng lao động có thời hạn với ông NĐ_Thanh (hai lần). Ngày 01/01/2008 Công ty ký hợp đồng lao động không thời hạn với ông NĐ_Thanh. Công việc của ông NĐ_Thanh là nhân viên kinh doanh sỉ. Tháng 11/2008, ông NĐ_Thanh được thay đổi công việc từ nhân viên kinh doanh sỉ sang làm nhiệm vụ Phó quản trị kho về công tác xuất hàng. Lương trong hợp đồng lao động của ông NĐ_Thanh là 585.000đ. Lương theo thỏa thuận là 4.500.000đ trong đó có 200.000đồng là phụ cấp trách nhiệm. Thực tế mỗi tháng ông NĐ_Thanh nhận lương theo doanh thu.
129/2014/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 702
- 27
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ nguyên đơn – Ông NĐ_Nguyễn Văn Tâm trình bày: Ông vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH giao nhận tốc hành Hoà Phát từ tháng 6/2008 đến nay, không ký hợp đồng lao động, công việc: nhân viên giao nhận hàng hóa, mức lương 5.000.000 đ/ tháng, công việc thường xuyên mỗi ngày làm 8 tiếng, nếu tăng ca 20.000 đ/ giờ. Ngày 25/6/2013, BĐ_Công ty TNHH giao nhận tốc hành Hoà Phát cho ông nghỉ việc không lý do. Nay ông yêu cầu BĐ_Công ty TNHH giao nhận tốc hành Hoà Phát phải bồi thường các Khoản sau: - Trợ cấp thôi việc 5 năm là: 12.500.000 đ - Tiền bảo hiểm xã hội 5 năm là 37.500.000 đ - Trợ cấp thất nghiệp 6 tháng là 18.000.000 đ - Bồi thường đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật là: 6 tháng lương x 5.000.000 đ = 30.000.000 đ Tổng cộng: 98.000.000 đ
118/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương Sơ thẩm Lao động
- 1760
- 36
Theo đơn khởi kiện, được bổ sung trong các bản tự khai, trong các biên bản hòa giải ngày 28/4/2014, ngày 02/7/2014, theo đó ông Phúc đại diện ông NĐ_Quân trình bày: Ngày 24/3/2011, BĐ_Công ty TNHH MTV Xe Khách An Tâm (Sau đây gọi tắt là Công ty xe khách SG) và ông NĐ_Dương Minh Quân ký hợp đồng lao động số 11-50-LX: HĐLĐ, thời hạn 01 năm kể từ ngày 24/03/2011 đến ngày 24/3/2012, chức danh chuyên môn: Nhân viên phục vụ xe buýt, mức lương chính: hệ số lương: 2.51, bậc 12.3, hình thức trả lương theo đơn giá khoán chuyến và qui chế trả lương của công ty từng thời Điểm. Theo hợp đồng thì ông NĐ_Quân là Nhân viên phục vụ xe buýt, tuy nhiên do ông NĐ_Quân có giấy phép lái xe phù hợp với yêu cầu của Công ty nên Công ty đã bố trí ông Làm lái xe từ ngày ký hợp đồng cho đến ngày xảy ra tai nạn.
115/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương và tiền đóng bảo hiểm Sơ thẩm Lao động
- 2280
- 46
Tranh chấp về tiền lương và tiền đóng bảo hiểm
Nguyên đơn vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Bình Việt Mai, Bị đơn từ ngày 04/5/2011, ký hợp đồng chính thức vào ngày 04/7/2011, loại hợp đồng không xác định thời hạn, chức danh Trưởng phòng hành chánh nhân sự. Ngày 01/01/2012 Bị đơn bổ nhiệm Nguyên đơn giữ chức danh Giám đốc nhân sự mức lương 18.000.000 đồng/tháng. Ngày 26/3/2012, Bị đơn ra thông báo tạm giữ lương của Nguyên đơn với lý do Bà Lan, nhân viên phòng hành chánh nhân sự tham ô tiền của Bị đơn. Mặc dù sau đó Bị đơn đã xác định Nguyên đơn không cấu kết, tiếp tay với bà Lan tham ô, và bà Lan cùng Bị đơn cũng đã thống nhất được mức bồi thường và thời gian bồi thường cho Bị đơn nhưng Bị đơn vẫn không thanh toán tiền lương cho Nguyên đơn. Do Bị đơn không trả lương cho Nguyên đơn khiến Nguyên đơn gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống nên ngày 02/7/2012 Nguyên đơn đã nộp đơn xin nghỉ việc.