14/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 418
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 18/11/2013 và ngày 03/01/2014, gia đình bà NĐ_Xinh lần lượt nhận được Quyết định số 6432/QĐ-UBND ngày 15/11/2013 và Quyết định số 7908/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Uỷ ban nhân dân quận TĐ về việc chi trả và chi trả bổ sung tiền bồi thường, hỗ trợ dự án mở rộng Quốc lộ 1, đoạn từ nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương đối với hộ gia đình bà NĐ_Xinh, tuy nhiên bà NĐ_Xinh không đồng ý với nội dung của hai quyết định này, bởi lẽ hai quyết định này được ban hành không đúng pháp luật và không phù hợp với thực tế sử dụng đất của gia đình bà NĐ_Xinh, cụ thể là: - Thứ nhất: cả hai Quyết định số 6432/QĐ-UBND ngày 15/11/2013 và Quyết định số 7908/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Uỷ ban nhân dân quận TĐ được ban hành dựa trên căn cứ pháp lý trái pháp luật cụ thể như sau:
13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 866
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Nhà - đất diện tích 291.6 m2 thuộc thửa đất số 64 - 74, tờ bản đồ 35, tọa lạc tại 15/53 Quốc lộ 1 A, khu phố 6, phường LT, quận TĐ của ông NĐ_Chín bị giải tỏa và được đền bù theo quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 05/3/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ trong dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ Nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương (viết tắt là quyết định 1544/QĐ-UBND) có nguồn gốc của bà Đào Thị Thâu đứng bộ, sau đó bà Thâu không sử dụng bán cho Ty Công Chánh để sử dụng làm xa lộ Biên Hòa và xa lộ Đại Hàn. Năm 1968, chế độ cũ sử dụng làm bãi rác Đô Thành. Cũng năm 1968, bà Trương Thị Dậu về sử dụng đất, sau khi bà Dậu chết, con gái bà Dậu tên Tô Thị Kim Hoa và chồng là Tống Văn Ba tiếp tục quản lý sử dụng đất. Sau đó, bà Hoa và ông Ba cho con trai tên Tô Thành Long và con dâu tên Trần Thị Lý sử dụng. Năm 1998, ông Long, bà Lý sang nhượng lại 01 phần nhà- đất cho bà Bùi Phương Liên, bà Liên sử dụng và có kê khai đăng ký nhà, đất theo Nghị định 60 CP, Nghị định 88 CP và quyết định 3376 của UBND Thành phố HCM vào sổ địa chính số 70133230866, tờ bản đồ số 5, thửa 249 do ban kê khai đăng ký phường LT ghi.
14/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 339
- 7
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và Biên bản đối thoại, người khởi kiện – ông NĐ_Lê Văn Thức có bà Nguyễn Thị Năm là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Căn nhà số 55 NTĐ, khu phố 3, phường AP, Quận X, Thành phố HCM diện tích nhà đất là 725,1m2 thuộc thửa 502 tờ bản đồ số 65, tọa lạc tại xã AP, Quận X. Nguồn gốc căn nhà trên do bà Võ Thị Dơn (mẹ ông NĐ_Thức) tạo lập từ trước năm 1975. Đến năm 1980 bà Võ Thị Dơn cho lại con trai và con dâu là vợ chồng ông NĐ_Thức bà LQ_Hoá ở quản lý sử dụng, ông NĐ_Thức đã xây thêm nhà cấp 4 trên phần đất nông nghiệp (phần 500/725m2). Năm 2005 ông NĐ_Thức lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận phần đất 725,1m2 được BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X cấp giấy chứng nhận cho ông NĐ_Thức và bà LQ_Hoá đứng tên ngày 13/6/2005 (trong có có 200m2 được công nhận là đất ở).
13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1637
- 33
Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất
Người khởi kiện: ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thiên Nga trình bày: Tại đơn khởi kiện ngày 04/05/2012, bản tự khai, các biên bản đối thoại và tại phiên tòa hôm nay. Vào ngày 8/11/1999, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng có mua căn nhà và đất của vợ chồng ông Lương Duy Tính bằng giấy tay, đất và nhà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, khi mua diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 100m2 với giá 20 cây vàng SJC. Khoản tiền mua nhà đất trên là do ngày 8/01/1997 Ông NĐ_Tổng được quân khu 7 cấp đất tại tỉnh lộ 15 phường Tân Chánh Hiệp huyện Hóc Môn (diện tích đất 120m2). Nhưng do hoàn cảnh gia đình và đi làm xa nhà nên đến năm 2001 ông NĐ_Tổng bán căn nhà và đất cho chị Ngô Thị Lý trú tại 72 đường Cộng Hòa, Phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM. (Với giá là 136 triệu đồng chẳn tiền Việt Nam) và lấy tiền mua nhà và đất tại Quận X. Ngày 24/12/1999 gia đình ông NĐ_Tổng có kê khai nhà đất, tờ đăng ký nhà, đất với diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 105m2 LQ_UBND phường BA xác nhận. Trong thời điểm gia đình ông NĐ_Tổng mua nhà và đất thì chưa có quy hoạch giải tỏa.
08/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 882
- 8
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế thu hồi đất
Tại Đơn khởi kiện ngày 14/3/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/10/2012, Bản tự khai ngày 26/6/2012, Biên bản đối thoại ngày 14/9/2012, 19/3/2014 và tại phiên tòa, người khởi kiện – ông NĐ_Lương Anh Sương có ông LQ_Lương Duy Sinh là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Phần nhà và đất tọa lạc tại số 739C đường TN (thuộc thửa 136 tờ bản đồ số 1 (ĐĐĐC)), tổ 29, phường BA, Quận X do ông NĐ_Lương Anh Sương sử dụng thuộc dự án xây dựng công viên vòng xoay chân cầu Sài Gòn, ông NĐ_Sương khởi kiện Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 13672/QĐ-UBND, ngày 24/10/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X. Khoản 3, Điều 9 Luật Đất đai năm 2003 quy định: nếu người sử dụng đất không chấp hành theo quyết định thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thì mới được ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Bản thân ông NĐ_Sương và gia đình chưa nhân được quyết định thu hồi đất được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục thẩm quyền được pháp luật quy định theo Điều 1 Nghị định 84/NĐCP, Điều 1 Nghị định 69/NĐCP nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X lại ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với ông NĐ_Sương là trái pháp luật.