1329/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1917
- 19
Ông NĐ_Lương Ngọc Tánh và bà BĐ_Lâm Thu Khuyên kết hôn hợp pháp và Ủy ban nhân dân Quận 3, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07 quyển số 01 ngày 08/01/1994. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2005 thì bắt đầu có dấu hiệu bất hòa và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Năm 2007 bà BĐ_Khuyên tự ý làm hồ sơ đi Anh quốc và bỏ đi đến nay không về. Hơn 01 năm nay bà BĐ_Khuyên cũng không còn liên lạc về. Ông được biết bà BĐ_Khuyên đã quyết định bỏ chồng chọn cuộc sống riêng nên ông yêu cầu ly hôn với bà BĐ_Khuyên để chấm dứt sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa hai bên.
1189/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1894
- 46
Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho tài sản
Cha mẹ của ông Chung và bà Đào đều đã chết trước ông Chung, bà Đào. Ngoài 06 người con trên ông Chung và bà Đào không có con riêng, con nuôi nào khác. Ông NĐ_Xoan được biết mẹ ông NĐ_Xoan (bà Đào) đã ký Hợp đồng tặng cho nhà (số công chứng 952 ngày 12/3/1996 tại LQ_Phòng Công chứng Số 2) căn nhà 10/14 cho bà Hoàng Thị Xiêm. Ông NĐ_Xoan khởi kiện yêu cầu hủy một phần Hợp đồng tặng cho nhà giữa bà Nguyễn Thị Đào với bà Hoàng Thị Xiêm và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phần di sản của ông Hoàng Đình Chung, bà là đại diện nguyên đơn đề nghị chia thêm phần di sản của bà Nguyễn Thị Đào vì: Hợp đồng tặng cho nhà không đúng thủ tục, bà Nguyễn Thị Đào đã kê khai không đúng sự thật (không khai đầy đủ các đồng thừa kế của ông Chung – Theo Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ ngày 16/10/1992 của bà Nguyễn Thị Đào); Theo Điều 2 của Hợp đồng tặng cho thì bà Đào có cam kết căn nhà đem cho thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên A (tức bà Đào), không bị tranh chấp về quyền sở hữu. Tuy nhiên toàn bộ căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của một mình bà Đào mà còn thuộc sở hữu của những đồng thừa kế của ông Chung.
1388/2015/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 992
- 8
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên trước đây bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Niên là Cửa hàng trưởng thuộc BĐ_Công ty Cổ phần vàng bạc đá quý SJC Linh Minh (sau đây gọi tắt là Công ty), ông LQ_Trần Văn Diêu là Giám đốc – người đại diện theo pháp luật của BĐ_Công ty Cổ phần vàng bạc đá quý SJC Linh Minh. Từ năm 2010, Công ty rơi vào hoàn cảnh khó khăn chung của các doanh nghiệp trong nước, việc vay vốn Ngân hàng không thể thực hiện vì không có tài sản đảm bảo nên Công ty có chủ trương huy động vốn của nhân viên. Sau nhiều lần, ông LQ_Trần Văn Diêu là chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm giám đốc Công ty, nhân danh Công ty có đề nghị với bà NĐ_Niên cho Công ty vay vốn 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) để đầu tư các dự án ngắn hạn. Trước khó khăn thật sự của Công ty, bà NĐ_Niên đã lấy căn nhà số 09 đường Sầm Sơn, Phường H, quận TB để thế chấp vay khoản tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) để cho Công ty vay lại.
1022/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1737
- 28
Theo đơn khởi kiện ngày 12/3/2012 (nộp cho Tòa án vào ngày 13/3/2014) và bản tự khai ngày 16/4/2014, bà NĐ_Nguyễn Thị Nhiên trình bày như sau: Bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew tự nguyện kết hôn với nhau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 4282, quyển số 17 ngày 29/12/2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew chung sống được 08 tháng. Trong quá trình chung sống, do chưa tìm hiểu nhau nhiều trước khi kết hôn và bất đồng ngôn ngữ, bà và ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew đã phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Tháng 8/2012, ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew trở về Nigeria và không còn liên lạc với bà. Đầu năm 2014, bà có liên lạc được với ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew và thông báo về việc bà yêu cầu ly hôn nhưng ông không có ý kiến. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Ikwueme Chinedu Bartholomew.
1013/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1284
- 7
Theo đơn khởi kiện ngày 09/7/2015 và bản tự khai ngày 27/8/2015, bà NĐ_Trương Sĩ Phương Thanh trình bày: Bà và ông BĐ_Đặng Quốc Thảo có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố HCM, vào sổ đăng ký kết hôn số 116, quyển số 01/2007 ngày 11 tháng 7 năm 2007. Sau khi kết hôn bà và ông BĐ_Thảo chung sống hạnh phúc được sáu tháng sau thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau. Nhận thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn cuộc sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên đã sống ly thân từ năm 2014. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông BĐ_Đặng Quốc Thảo.