1012/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 348
- 3
Tại đơn khởi kiện ngày 18/11/2014 và bản tự khai ngày 11/12/2014, bà Dương Hồ Ngọc trình bày: Bà và ông BĐ_Trần Ngọc Tuyến đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 2715, quyển số 11 ngày 20/8/2007 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn được vài tuần, ông BĐ_Tuyến trở về Đức. Bà và ông BĐ_Tuyến vẫn thường xuyên liên lạc, ông BĐ_Tuyến làm thủ tục bảo lãnh bà sang Đức và có gửi sinh hoạt phí cho bà. Tuy nhiên từ năm 2011, ông BĐ_Tuyến không còn liên lạc và không có trách nhiệm, không tiếp tục làm thủ tục bảo lãnh. Đôi bên đã không còn quan tâm và liên lạc với nhau. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Tuyến để ổn định cuộc sống.
960/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 428
- 8
Tại đơn khởi kiện ngày 03/7/2012, nguyên đơn - bà NĐ_Trần Thị Bạch Hồng và lời khai của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Dương Thành Công như sau: Căn hộ số 3.04 Lô B1, chung cư A2, đường PXL, Phường G, quận PN, Thành phố HCM là tài sản riêng của bà NĐ_Hồng trước khi kết hôn với ông BĐ_Nguyễn Ngọc Liêm. Căn nhà này được bà NĐ_Hồng mua vào năm 2006, có ký hợp đồng chuyển nhượng tại Phòng công chứng số 1, Thành phố HCM ngày 07/3/2006, đăng bộ ngày 13/4/2006. Sau đó, bà NĐ_Hồng được cấp đổi chủ quyền theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ GCN: CH01815 ngày 21/09/2011 của Ủy ban nhân dân quận PN, Thành phố HCM.
630/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1809
- 31
Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - bà NĐ_Hứa Bửu Liêm trình bày như sau: Nhà và đất tọa lạc tại số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM là của mẹ bà là bà Hứa Anh mua của bà Phạm Thị Giá vào năm 1967 bằng giấy tay (đã thất lạc). Thời điểm đó, bà đứng tên hộ khẩu gia đình. Năm 1975, bà chuyển hộ khẩu về ở chung với mẹ tại số 339 đường 3/2, Quận Y để chăm sóc mẹ bà. Năm 1976, bà làm đơn bảo lãnh cho ông Lưu Quốc Minh là em vợ ông LQ_Ngô Vĩnh Xanh (em trai bà) nhập hộ khẩu vào căn nhà này, gia đình ông Minh cư ngụ từ đó đến nay. Việc cho ông Minh ở nhờ không được thể hiện bằng văn bản nhưng ông Minh có nói khi nào có nhà thì trả lại. Năm 1977, khi kê khai nhà đất, ông Minh khai căn nhà này là của bà Hứa Anh. Năm 1992, bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2000, bà Hứa Anh được LQ_Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9051/2000. Hiện ông Minh đã chết, các con của ông Minh đang sử dụng nhà và không trả lại cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lưu Cẩm Đào và những người đang ở trong căn nhà trả lại nhà đất số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM cho mẹ bà có bà là người đại diện các đồng thừa kế.
630/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 987
- 3
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - bà NĐ_Hứa Bửu Liêm trình bày như sau: Nhà và đất tọa lạc tại số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM là của mẹ bà là bà Hứa Anh mua của bà Phạm Thị Giá vào năm 1967 bằng giấy tay (đã thất lạc). Thời điểm đó, bà đứng tên hộ khẩu gia đình. Năm 1975, bà chuyển hộ khẩu về ở chung với mẹ tại số 339 đường 3/2, Quận Y để chăm sóc mẹ bà. Năm 1976, bà làm đơn bảo lãnh cho ông Lưu Quốc Minh là em vợ ông LQ_Ngô Vĩnh Xanh (em trai bà) nhập hộ khẩu vào căn nhà này, gia đình ông Minh cư ngụ từ đó đến nay. Việc cho ông Minh ở nhờ không được thể hiện bằng văn bản nhưng ông Minh có nói khi nào có nhà thì trả lại. Năm 1977, khi kê khai nhà đất, ông Minh khai căn nhà này là của bà Hứa Anh. Năm 1992, bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2000, bà Hứa Anh được LQ_Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9051/2000. Hiện ông Minh đã chết, các con của ông Minh đang sử dụng nhà và không trả lại cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lưu Cẩm Đào và những người đang ở trong căn nhà trả lại nhà đất số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM cho mẹ bà có bà là người đại diện các đồng thừa kế.
492/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 317
- 6
Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2014 và bản tự khai ngày 30/7/2014, bà NĐ_Dương Hồ Hạnh trình bày: Bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) tự nguyện kết hôn với nhau và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 1444, quyển số 08 ngày 28/5/2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM. Sau khi kết hôn, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chung sống được một thời gian ngắn thì ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) trở về Hoa Kỳ. Từ đó, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) chỉ liên lạc qua điện thoại hoặc email nhưng không thường xuyên. Ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) không lần nào về thăm bà tại Việt Nam. Đến nay, bà và ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale) đã không còn liên lạc với nhau. Do điều kiện sống xa cách, bất đồng ngôn ngữ nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố HCM giải quyết cho bà ly hôn với ông BĐ_Fondale David Jeffery (BĐ_David Fondale).