13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1637
- 33
Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất
Người khởi kiện: ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thiên Nga trình bày: Tại đơn khởi kiện ngày 04/05/2012, bản tự khai, các biên bản đối thoại và tại phiên tòa hôm nay. Vào ngày 8/11/1999, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng có mua căn nhà và đất của vợ chồng ông Lương Duy Tính bằng giấy tay, đất và nhà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, khi mua diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 100m2 với giá 20 cây vàng SJC. Khoản tiền mua nhà đất trên là do ngày 8/01/1997 Ông NĐ_Tổng được quân khu 7 cấp đất tại tỉnh lộ 15 phường Tân Chánh Hiệp huyện Hóc Môn (diện tích đất 120m2). Nhưng do hoàn cảnh gia đình và đi làm xa nhà nên đến năm 2001 ông NĐ_Tổng bán căn nhà và đất cho chị Ngô Thị Lý trú tại 72 đường Cộng Hòa, Phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM. (Với giá là 136 triệu đồng chẳn tiền Việt Nam) và lấy tiền mua nhà và đất tại Quận X. Ngày 24/12/1999 gia đình ông NĐ_Tổng có kê khai nhà đất, tờ đăng ký nhà, đất với diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 105m2 LQ_UBND phường BA xác nhận. Trong thời điểm gia đình ông NĐ_Tổng mua nhà và đất thì chưa có quy hoạch giải tỏa.
11/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 945
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp. Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp.
08/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 332
- 11
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 10/12/2013, gia đình ông NĐ_Tánh nhận được Quyết định số 7101/QĐ-UBND ngày 04/12/2013 của BĐ_UBND Quận TĐ về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương đối với gia đình ông. Ông không đồng ý với nội dung quyết định này bởi lẽ quyết định không đúng pháp luật và không phù hợp với thực tế sử dụng đất của gia đình ông, cụ thể: 1) Quyết định 7101/QĐ-UBND dựa trên căn cứ pháp lý là quyết định số 2725/QĐ-UBND ngày 16/6/2006 của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, Quyết định 2725/QĐ-UBND ngày 16/6/2006 bổ sung cho quyết định 3453/QĐ-UBND ngày 20/8/2003, Quyết định 3453/QĐ-UBND ngày 20/8/2003 dựa vào quyết định 660/QĐ-TTg ngày 17/6/2003 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng đại học quốc gia Thành phố HCM nhưng Quyết định 2725/QĐ-UBND có nội dung là mở rộng Xa lộ Hà Nội.
08/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 882
- 8
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế thu hồi đất
Tại Đơn khởi kiện ngày 14/3/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/10/2012, Bản tự khai ngày 26/6/2012, Biên bản đối thoại ngày 14/9/2012, 19/3/2014 và tại phiên tòa, người khởi kiện – ông NĐ_Lương Anh Sương có ông LQ_Lương Duy Sinh là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Phần nhà và đất tọa lạc tại số 739C đường TN (thuộc thửa 136 tờ bản đồ số 1 (ĐĐĐC)), tổ 29, phường BA, Quận X do ông NĐ_Lương Anh Sương sử dụng thuộc dự án xây dựng công viên vòng xoay chân cầu Sài Gòn, ông NĐ_Sương khởi kiện Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 13672/QĐ-UBND, ngày 24/10/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X. Khoản 3, Điều 9 Luật Đất đai năm 2003 quy định: nếu người sử dụng đất không chấp hành theo quyết định thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thì mới được ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Bản thân ông NĐ_Sương và gia đình chưa nhân được quyết định thu hồi đất được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục thẩm quyền được pháp luật quy định theo Điều 1 Nghị định 84/NĐCP, Điều 1 Nghị định 69/NĐCP nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X lại ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với ông NĐ_Sương là trái pháp luật.
06/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 293
- 13
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Người khởi kiện ông NĐ_Trần Hữu Phước có ông Trần Văn Quân làm đại diện trình bày: Cha ông là ông NĐ_Trần Hữu Phước là chủ sở hữu của căn nhà và đất số 171 (số cũ 658) xa lộ Hà Nội, phường TĐ, quận X bị thu hồi để thực hiện dự án xa lộ Hà Nội giai đoạn 2. Căn nhà này gia đình ông sử dụng từ trước năm 1975, đến năm 1975 bán lại cho ông Nguyễn Văn Bôi, sau đó ông Bôi để lại cho con là Nguyễn Bình Minh sử dụng, ngày 06/12/1990, ông Minh chuyển nhượng toàn bộ nhà đất trên cho ông Đỗ Văn Tiến và bà Nguyễn Thị Tuyết Mai năm 1992 thì bà Mai ông Tiến bán lại cho cha mẹ ông là ông NĐ_Trần Hữu Phước và Nguyễn Thị Trường sử dụng. Năm 2004 ông NĐ_Phước bà Trường ly hôn thì ông NĐ_Phước được phân chia toàn bộ nhà và đất nêu trên.