14/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 339
- 7
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và Biên bản đối thoại, người khởi kiện – ông NĐ_Lê Văn Thức có bà Nguyễn Thị Năm là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Căn nhà số 55 NTĐ, khu phố 3, phường AP, Quận X, Thành phố HCM diện tích nhà đất là 725,1m2 thuộc thửa 502 tờ bản đồ số 65, tọa lạc tại xã AP, Quận X. Nguồn gốc căn nhà trên do bà Võ Thị Dơn (mẹ ông NĐ_Thức) tạo lập từ trước năm 1975. Đến năm 1980 bà Võ Thị Dơn cho lại con trai và con dâu là vợ chồng ông NĐ_Thức bà LQ_Hoá ở quản lý sử dụng, ông NĐ_Thức đã xây thêm nhà cấp 4 trên phần đất nông nghiệp (phần 500/725m2). Năm 2005 ông NĐ_Thức lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận phần đất 725,1m2 được BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X cấp giấy chứng nhận cho ông NĐ_Thức và bà LQ_Hoá đứng tên ngày 13/6/2005 (trong có có 200m2 được công nhận là đất ở).
13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1637
- 33
Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất
Người khởi kiện: ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thiên Nga trình bày: Tại đơn khởi kiện ngày 04/05/2012, bản tự khai, các biên bản đối thoại và tại phiên tòa hôm nay. Vào ngày 8/11/1999, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng có mua căn nhà và đất của vợ chồng ông Lương Duy Tính bằng giấy tay, đất và nhà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, khi mua diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 100m2 với giá 20 cây vàng SJC. Khoản tiền mua nhà đất trên là do ngày 8/01/1997 Ông NĐ_Tổng được quân khu 7 cấp đất tại tỉnh lộ 15 phường Tân Chánh Hiệp huyện Hóc Môn (diện tích đất 120m2). Nhưng do hoàn cảnh gia đình và đi làm xa nhà nên đến năm 2001 ông NĐ_Tổng bán căn nhà và đất cho chị Ngô Thị Lý trú tại 72 đường Cộng Hòa, Phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM. (Với giá là 136 triệu đồng chẳn tiền Việt Nam) và lấy tiền mua nhà và đất tại Quận X. Ngày 24/12/1999 gia đình ông NĐ_Tổng có kê khai nhà đất, tờ đăng ký nhà, đất với diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 105m2 LQ_UBND phường BA xác nhận. Trong thời điểm gia đình ông NĐ_Tổng mua nhà và đất thì chưa có quy hoạch giải tỏa.
01/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1445
- 38
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ngày 26/7/1981, văn phòng Trung ương mặt trận tổ quốc Việt nam – T31 có quyết định 107/QĐ – VP bố trí cho gia đình bà gồm có 03 người ở tầng trệt nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM, quyết định không nêu rõ diện tích là bao nhiêu. Ngày 20/10/2000, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định 156/QĐ – UB giải quyết phân chia diện tích sử dụng nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM: hộ bà NĐ_Thểu 01 nhân khẩu, sử dụng ((2,75m2 x 13,5 m2 ) + 8.3m2 x3,9m2) – (4,5m2 x1,84m2)) = 61,4m2. Ngày 07/4/2003, bà có ký hợp đồng thuê nhà với Công ty quản lý nhà Quận X với diện tích 61,4m2, thời hạn thuê là 60 tháng. Ngày 31/3/2003, Ủy ban nhân dân Thành phố HCM có Công văn số 1300/UBPC về việc trả lời khiếu nại cho bà, công nhận quyết định 156/QĐ – UB ngày 20/10/2000, bà được sử dụng phần tầng trệt với diện tích 61,4 m2 là đúng Ngày 29/12/2005, UBND Quận X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở với diện tích là 43,54m2 là không có cơ sở, không có căn cứ gây thiệt hại cho bà. Nay, bà yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB861610 ngày 29/12/2005 thay vì bà được cấp với diện tích 61,40m2.
07/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 334
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, biên bản đối thoại, người khởi kiện ông NĐ_Lê Văn Được trình bày: ông Lê Văn Mới và bà Huỳnh Thị Thức chung sống có các con gồm: Ông NĐ_Lê Văn Được, bà Lê Thị Thơ, bà Lê Thị Tám, bà Lê Thị Yến và bà Lê Thị Bảy. Lúc cha mẹ của bà còn sống có tạo dựng một căn nhà ở và đất diện tích là 819,52m2 để lại và ông có đăng ký quyền sử dụng đất ở ngày 6/8/1999 với toàn bộ diện tích đất ở là 819,52m2 theo Quyết định số 3376/QĐ - UBND ngày 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM (UBND Thành phố HCM). Trong diện tích này ông sử dụng 419,7m2 là một phần thừa kế do cha mẹ để lại tọa lạc tại số 406/17 Tổ 19, Khu phố 2, Phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM. Theo họa đồ hiện trạng lập ngày 18/5/2008 do Công ty đo đạc và công trình đo vẽ và văn bản số 14766/VPĐK-KT ngày 18/10/2011 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Thành phố theo Chỉ thị số 229/TTg thì toàn bộ diện tích 419,7m2 thuộc các thửa đất số 752, 753, 696 đã được đăng ký với mục đích sử dụng là đất thổ cư (T). Căn cứ vào Quyết định số 499/QĐ- ĐC ngày 27/7/1995 của Tổng cục trưởng Tổng cục địa chính và Thông tư số 1990/2001/TT-TTĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính quy định ký hiệu quy ước ghi trong sổ địa chính thì đất chữ “T” được xác định là đất ở.
05/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 982
- 21
Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất
Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Văn Bội, bà NĐ_Bùi Thị Huệ có ông NĐ_Bội làm đại diện trình bày: Gia đình ông đã cư trú tại phường TML, Quận X từ rất lâu. Năm 2010 ông được mời hiệp thương để thông báo phần đất diện tích khoảng 240 m2 trong đó có 230 m2 thuộc một phần thửa 81 – 82 được ông mua lại của bà Nguyễn Thị Mắc năm 2000, phần đất còn lại l đất của ông sử dụng ổn định từ trước năm 1975 bị thu hồi để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2, ngày 19/7/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 10402/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư đối với phần đất này và xác định phần đất của ông thuộc dự án 174ha. Không đồng ý với quyết định bồi thường ông đã khiếu nại đến chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, trong khi ông khiếu nại thì ngày 03/12/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 15776/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với phần đất của gia đình ông, ngày 21/3/2011 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 3533/UB-UBND ngày 21/3/2011 sửa đổi một phần nội dung quyết định số 10402/QĐ-UBND, ngày 04/5/2011 ban hành quyết định số 5635/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định số 3533/QĐ-UBND, sửa đổi một phần nội dung của quyết định 10402/QĐ-UBND nhưng ngày 15/01/2014 mới bàn giao cho ông.