cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

13/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1640
  • 33

Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất

06-06-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện: ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thiên Nga trình bày: Tại đơn khởi kiện ngày 04/05/2012, bản tự khai, các biên bản đối thoại và tại phiên tòa hôm nay. Vào ngày 8/11/1999, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Hữu Tổng có mua căn nhà và đất của vợ chồng ông Lương Duy Tính bằng giấy tay, đất và nhà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, khi mua diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 100m2 với giá 20 cây vàng SJC. Khoản tiền mua nhà đất trên là do ngày 8/01/1997 Ông NĐ_Tổng được quân khu 7 cấp đất tại tỉnh lộ 15 phường Tân Chánh Hiệp huyện Hóc Môn (diện tích đất 120m2). Nhưng do hoàn cảnh gia đình và đi làm xa nhà nên đến năm 2001 ông NĐ_Tổng bán căn nhà và đất cho chị Ngô Thị Lý trú tại 72 đường Cộng Hòa, Phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM. (Với giá là 136 triệu đồng chẳn tiền Việt Nam) và lấy tiền mua nhà và đất tại Quận X. Ngày 24/12/1999 gia đình ông NĐ_Tổng có kê khai nhà đất, tờ đăng ký nhà, đất với diện tích nhà là 34m2 và diện tích đất là 105m2 LQ_UBND phường BA xác nhận. Trong thời điểm gia đình ông NĐ_Tổng mua nhà và đất thì chưa có quy hoạch giải tỏa.


11/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 947
  • 10

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

12-05-2014
TAND cấp huyện

Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp. Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp.


10/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 498
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

12-05-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2013 và tại tòa người khởi kiện ông NĐ_Trần Phú Khổng trình bày: Nguồn gốc phần nhà, đất có diện tích 191,5m2 tọa lạc tại số 9/17 Xa Lộ Hà Nội, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM do ông chuyển nhượng của bà Kiền vào năm 1992 bằng giấy tay và cất nhà ở ổn định cho đến ngày nhà nước thu hồi. Ngày 02/12/2013 Ủy ban nhân dân Thành phố HCM ban hành Quyết định số 3453/QĐ – UBND thu hồi tổng thể 108,8970 ha đất nằm trong khu vực quy hoạch đầu tư xây dựng Đại học quốc gia Thành phố HCM tại phường LT và phường Linh Xuân quận TĐ, giao cho Đại học quốc gia Thành phố HCM 95,817,6 ha đất trong phần diện tích đất thu hồi nêu trên, để tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng, quản lý khu đất là không đúng với trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.


10/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 305
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

29-04-2014
TAND cấp huyện

Theo ông NĐ_Gang, Quyết định hành chính của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y gây thiệt hại cho gia đình ông NĐ_Gang vì ông NĐ_Gang có xây cất nhà và đã ở tại vị trí nhà, đất bị quy hoạch từ năm 2001, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y lại bồi thường theo giá đất nông nghiệp, không công nhận đất thổ cư. Ngoài ra, diện tích đất thực tế là 825,09m2 nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y chỉ bồi thường diện tích 787,89m2; BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y không bồi thường đối với vật kiến trúc trên đất là không thỏa đáng; thực tế hộ có 12 người cần được nhận căn hộ tái định cư. Ông NĐ_Gang xác định tiền xây cất nhà là do cha, mẹ của ông NĐ_Gang bỏ ra.


01/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1445
  • 38

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

28-04-2014
TAND cấp huyện

Ngày 26/7/1981, văn phòng Trung ương mặt trận tổ quốc Việt nam – T31 có quyết định 107/QĐ – VP bố trí cho gia đình bà gồm có 03 người ở tầng trệt nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM, quyết định không nêu rõ diện tích là bao nhiêu. Ngày 20/10/2000, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định 156/QĐ – UB giải quyết phân chia diện tích sử dụng nhà 122 LTT, phường BT, Quận X – HCM: hộ bà NĐ_Thểu 01 nhân khẩu, sử dụng ((2,75m2 x 13,5 m2 ) + 8.3m2 x3,9m2) – (4,5m2 x1,84m2)) = 61,4m2. Ngày 07/4/2003, bà có ký hợp đồng thuê nhà với Công ty quản lý nhà Quận X với diện tích 61,4m2, thời hạn thuê là 60 tháng. Ngày 31/3/2003, Ủy ban nhân dân Thành phố HCM có Công văn số 1300/UBPC về việc trả lời khiếu nại cho bà, công nhận quyết định 156/QĐ – UB ngày 20/10/2000, bà được sử dụng phần tầng trệt với diện tích 61,4 m2 là đúng Ngày 29/12/2005, UBND Quận X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở với diện tích là 43,54m2 là không có cơ sở, không có căn cứ gây thiệt hại cho bà. Nay, bà yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB861610 ngày 29/12/2005 thay vì bà được cấp với diện tích 61,40m2.