cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 505
  • 7

Tranh chấp thừa kế

27-06-2013

Theo bằng khoán điền thổ (tiếng Pháp), các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thì nhà đất tranh chấp tại Đường Hàng Lọng số 77, Bằng khoán điền thổ số 293, ĐK, HN, nay là số 75-77 LD, phường CN, HK, HN có nguồn gốc là của cố Trần Thị Bàn đứng tên mua năm 1941. Sau đó, cố Bàn cho cháu ngoại là cụ NĐ_Trần Thị Nga toàn bộ nhà đất đã mua theo chúc thư ngày 15/7/1941. Năm 1944, cụ NĐ_Nga kết hôn với cụ Phạm Ngọc Yến và về ở tại nhà đất này. Năm 1946, cụ NĐ_Nga và cụ Yến đã sang tên trên bằng khoán điền thổ. Năm 2000, cụ Yến chết không để lại di chúc. Năm 2003, cụ NĐ_Nga được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 120m2, diện tích đất 253m2.


264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 810
  • 9

Yêu cầu chia thừa kế

21-06-2013

Năm 2006, cụ Đệ chết có để lại di chúc lập ngày 25/4/2005 (do ông Chu Văn Đinh Viết và có hai người làm chứng là bà Hoàng Thị Lịch, ông Trần Văn Đức) với nội dung sau khi cụ chết thì người thừa kế toàn bộ nhà đất tại 11 THĐ là bà NĐ_Mai Thị Liên (BL5). Với nội dung trên nguyên đơn bà NĐ_Mai Thị Liên khởi kiện yêu cầu các đồng thừa kế là ông LQ_Quan, ông LQ_Bảo, ông LQ_Tài, bà BĐ_Linh và bà LQ_Hằng giao nhà đất cho bà. Nếu di chúc không hợp pháp, bà yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.


264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 514
  • 3

Tranh chấp thừa kế

21-06-2013

Ngày 31/9/1958 vợ chồng ông Ngô Trọng Hoè và bà Nguyễn Thị Tỉnh chuyển nhượng cho vợ chồng cụ Mai Văn Tích và cụ Nguyễn Thị Đệ nhà và đất tại 11 THĐ, phường CL, thành phố LS, tỉnh LS. Cụ Tích và cụ Đệ có 05 người con là ông LQ_Mai Văn Bảo, bà BĐ_Mai Thị Linh, ông LQ_Mai Văn Tài, bà LQ_Mai Thị Hằng, NĐ_Mai Thị Liên, ông LQ_Mai Văn Quan là con riêng của cụ Tích (nhưng được cụ Đệ nuôi từ nhỏ và coi như con). Năm 1973, cụ Tích chết không để lại di chúc. Ngày 29/01/2003 hộ cụ Đệ được cấp GCNQSD đất 146,2m2, tại số 11 THĐ, phường CL, tp LS, tỉnh LS.


69/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 603
  • 15

Tranh chấp quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản

14-06-2013

Cụ Mạch Bững và cụ Nguyễn Thị Huỳnh có 13 người con, nhưng 5 người đã chết (khi còn nhỏ), còn lại 8 người là: bà LQ_Mạch Thị Bảo (đang ở Canada), bà LQ_Mạch Thị Thu Ca, ông BĐ_Mạch Văn Bình, ông LQ_Mạch Văn Tân (ở Hoa Kỳ), bà LQ_Mạch Thị Châu, ông LQ_Mạch Văn Minh, ông và bà LQ_Mạch Thị Thanh. Về tài sản: Hai cụ có căn nhà 80m2 (4m x 20m) trên phần đất tại khóm 1, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TV. Năm 1982 cụ Bững chết không để lại di chúc. Trước giải phóng năm 1975, ông BĐ_Bình lập gia đình và ở tại Bến Tre. Sau giải phóng, vợ chồng ông BĐ_Bình và con là anh BĐ_Mạch Thiên Kiên về ở chung nhà với hai cụ. Năm 1983, cụ Huỳnh kê khai đất theo Chỉ thị 299/TTg.


65/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1251
  • 82

Đòi lại nhà cho ở nhờ

12-06-2013

Tại đơn khởi kiện ngày 25/9/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lưu Hán Mẫn trình bày: Căn nhà số 457/391 A (nay là nhà số 455/10) PVT, phường 7, quận X, thành phố HCM của cố Lý Tường Hương (là bà nội của ông) nhận chuyển nhượng của cụ Trần Nga năm 1958. Năm 1977, cố Hương chết, cụ Lưu Tòng (là cha của bà BĐ_Trang) xin ở nhờ. Năm 2005, cụ Tòng chết, bà BĐ_Trang tiếp tục quản lý, sử dụng nhà, ông đòi nhà nhiêu lân nhưng bà BĐ_Trang không trả, nên ông yêu cầu bà BĐ_Trang và các con của cụ Tòng trả nhà cho ông vì cụ Lương là con duy nhất của cố Hương (cụ Lương sinh tại Trung Quốc nên không có giấy khai sinh và giấy tờ chứng minh cụ Lương là con của cố Hương).