cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2014/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 751
  • 13

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

23-01-2014
TAND cấp huyện

Nguyên đơn NĐ_Ngân hàng TMCP xăng dầu An Khang (NĐ_AK Bank) lần lượt ủy quyền cho các ông Lê Đăng Bảo, ông Nguyễn An Bình và ông Nguyễn Thanh Sang làm đại diện trình bày: Trong đơn khởi kiện ngày 14/01/2013, bản tự khai, các biên bản không tiến hành hòa giải được thì ngày 28/8/2012 Chi nhánh Sài Gòn NĐ_Ngân hàng TMCP xăng dầu An Khang và ông BĐ_Nguyễn Quốc Thịnh chủ Doanh nghiệp tư nhân xây dựng thương mại Vạn Phúc có ký Hợp đồng hạn mức tín dụng ngắn hạn số 0307.441/HĐHM/NH-PN/12. Nội dung Ngân hàng cho ông BĐ_Nguyễn Quốc Thịnh chủ Doanh nghiệp tư nhân xây dựng thương mại Vạn Phúc vay số tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng), thời hạn vay là 12 tháng, mục đích vay để bổ sung vốn lưu động kinh doanh thiết bị vệ sinh, vật tư xây dựng, trang trí nội thất. Hai bên có thỏa thuận bổ sung Giấy nhận nợ số GNN/01-0307.441/PN/12 ngày 30/8/2012, thỏa thuận lại thời hạn vay là 09 tháng kể từ ngày 30/8/2012 đến ngày 30/5/2013, trả nợ gốc vào cuối kỳ. Lãi suất vay là 15%/năm và chịu sự điều chỉnh theo quy định tại Điều 4 của Hợp đồng hạn mức tín dụng ngắn hạn số 0307.441/HĐHM/NH-PN/12 ngày 28/8/2012, trả lãi vào ngày 26 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 26/9/2012.


35/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 8966
  • 242

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

21-11-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện ngày 12/11/2013 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân Quận X, nguyên đơn là ông NĐ_Đỗ Quốc Ba trình bày: Ngày 04/3/2011 ông được tuyển dụng vào làm bảo vệ tại BĐ_Công ty cổ phần giáo dục Quân Tiến. Ngày 10/5/2011 sau khi hết thời gian thử việc ông và BĐ_Công ty cổ phần giáo dục Quân Tiến ký kết hợp đồng lao động thời hạn 01 năm; tiếp theo ngày 10/5/2012 ông tiếp tục ký hợp đồng lao động thời hạn 03 năm với BĐ_Công ty cổ phần giáo dục Quân Tiến. Thời gian đầu, ông làm việc 08 giờ/ngày. Một tháng sau đó, do Công ty thiếu người nên ông chuyển qua làm việc 12 giờ/ngày. Đến ngày 11/4/2013, ông lại chuyển qua làm 24 giờ/ngày. Ngày 05/10/2013 khi đang làm tại cơ sở 118 ADV, Phường 8, Quận X, Thành phố HCM thì BĐ_Công ty cổ phần giáo dục Quân Tiến thông báo cho ông nghỉ việc. Vào lúc 23 giờ cùng ngày Công an Phường 8, Quận X đã lập biên bản về việc ông phải nghỉ ngang.


17/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 1588
  • 57

Tranh chấp về tiền trợ cấp thôi việc

18-11-2014
TAND cấp huyện

Sau thời gian báo trước bà NĐ_Thanh đ bàn giao công việc cho công ty đầy đủ và chính thức nghỉ việc từ 03/12/2013. Từ khi nghỉ việc đến nay, tiền lương 08 ngày còn lại của kỳ lương tháng 12 và các khoản trợ cấp thôi việc theo qui định hiện Công ty vẫn không thanh toán cho bà NĐ_Thanh. Bà NĐ_Thanh đã nhiều lần liên hệ nhưng không được Công ty giải quyết. Bà NĐ_Thanh đã gởi đơn đến Liên đoàn lao động Quận X nhờ xem xét giúp đỡ, sau 02 lần hòa giải nhưng Công ty vẫn không thanh toán cho bà NĐ_Thanh Nay bà NĐ_Thanh làm đơn này yêu cầu Tòa án Quận X giải quyết buộc BĐ_Công ty TNHH Kỹ thuật thương mại An Khang phải: 1. Thanh tóan chế độ trợ cấp thôi việc cho bà NĐ_Thanh từ tháng 08/2004 đến tháng 11/2013 là 09 năm 04 tháng (4.75T) theo HĐLĐ đ ký: 40.090.000đ 2. Các khoản BHXH, BHYT BĐ_Công ty An Khang thỏa thuận trong HĐLĐ nhưng không tham gia (17%) từ tháng 08/2004 đến tháng 12/2004 và từ tháng 09/2008 đến tháng 11/2013 (5 năm 8 tháng) với tổng số tiền l: 58.291.000 đ


25/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2874
  • 122

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

19-09-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện ngày 23/6/2013, bản khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Linh trình bày: Ngày 26/11/1999 ông và BĐ_Ngân hàng TM-CP Thanh Ân (gọi tắt là BĐ_VTA) ký hợp động lao động không xác định thời hạn. Ngày 03/6/2013 BĐ_VTA ban hành thông báo số 3364 và Quyết định số 4759 ngày 24/7/2013 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông. Việc BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng với ông đã vi phạm nguyên tắc và trình tự xử lý: Không thông báo bằng văn bản cho ông, không có mặt đại diện công đoàn, không chứng minh được lỗi của ông. Sau khi nhận được thông báo của BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng lao động với ông, ông đã gửi đơn khiếu nại đến BĐ_VTA 3 lần. Ngày 13/11/2013 BĐ_VTA có thông báo nhận ông trở lại làm việc.


23/2014/LĐST Sơ thẩm Lao động

  • 2956
  • 91

Tranh chấp về tiền lương

16-09-2014
TAND cấp huyện

Khi ông NĐ_Morten có Thư từ chức, đại diện BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An có thỏa thuận với ông bằng một văn bản “Thư từ chức” ngày 31.01.2013, xác nhận tiền lương Công ty còn nợ ông đến thời điểm này là 32.000 USD và cam kết sẽ thanh toán những phần lương trên nhưng thực tế đến ngày 28/2/2013, Công ty chỉ chuyển cho ông số tiền tương đương 3.000 USD nên số tiền lương Công ty còn nợ là 29.000 USD, trong đó bao gồm: 6.000 USD lương của tháng 1/2013, 6.000 USD lương tháng 2/2013 và 16.000 USD lương (Của 16 tháng, từ lúc bắt đầu làm việc cho đến khi nghỉ việc). Sau khi hai bên ký kết văn bản, BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An không thanh toán các Khoản lương còn nợ với lý do không chính đáng. Do đó, ông NĐ_Morten yêu cầu Tòa án giải quyết buộc: BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An thanh toán ngay cho ông số tiền lương còn nợ là 29.000 USD quy đổi ra tiền đồng Việt Nam tại thời điểm xét xử và trả lãi theo quy định pháp luật do vi phạm thỏa thuận thanh toán tính từ ngày 2/03/2013 cho đến ngày Tòa xét xử là 18 tháng.