01/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 758
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, biên bản đối thoại, người khởi kiện bà NĐ_Lê Thị Toàn có bà Lê Thị Bảy là người đại diện hợp pháp trình bày: Bà NĐ_Toàn có các anh chị em gồm: Lê Văn Danh, sinh năm: 1958; Lê Thị Yến, sinh năm: 1956; Lê Thị Bảy, sinh năm: 1966. Là con ông Lê Văn Mới (1925-1977) và bà Huỳnh Thị Thức ( 1934-1994). Khi cha mẹ còn sống có tạo dựng một căn nhà ở và đất ở có diện tích là 819,52 m2. Diện tích đất ở này có từ năm 1955 do cha mẹ bà để lại và được anh ruột là Lê Văn Danh sinh năm 1958, hiện thường trú tại 406/17 Tổ 19, Khu phố 2, Phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM đã đăng ký đất ở ngày 06/8/1999 với toàn bộ diện tích đất ở là 819,52 m2 theo Quyết định 3376/QĐ-UBND ngày 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM. Trong diện tích này bà NĐ_Toàn có sử dụng 107,57m2 là một phần đất do cha mẹ để lại.
43/2013/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 524
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo Đơn khởi kiện ngày 22/5/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 05/6/2012, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Huỳnh Thị Phan yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy các quyết định sau: Quyết định số 10673/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với căn nhà số 763K Xa lộ Hà Nội, Khu phố 2, phường TĐ, Quận X và phần diện tích đất 163,54m2 thuộc thửa 120, một phần thửa 121, Đường tờ bản đồ số 58 phường TĐ, Quận X; Quyết định số 7851/QĐ – UBND ngày 20/6/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về sửa đổi bổ sung tại Phương án số 197/PA – HĐBT ngày 18/10/2010, Quyết định 5971/QĐ-UBND-TTr ngày 02/5/2012 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X về giải quyết đơn khiếu nại của bà NĐ_Huỳnh Thị Phan;
147/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 602
- 9
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 28/01/2008, bà BĐ_Hoàng Bích Loan khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều về việc yêu cầu bà NĐ_Kiều hoàn trả cho bà BĐ_Loan số tiền vay 5 lần từ ngày 28/6/2006 đến ngày 30/4/2007, tổng cộng là 219.370.000 đồng nhưng bà NĐ_Kiều chưa giao trả đủ. Tuy nhiên, bà NĐ_Kiều chỉ công nhận, vào khoảng tháng 4 năm 2006, bà có vay của bà BĐ_Loan 80.000.000 đồng và có thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà NĐ_Kiều do UBND huyện Long Đất cấp ngày 25/2/2004, đến nay phía bà NĐ_Kiều đã trả nợ gốc và lãi cho bà BĐ_Loan tổng cộng là 153.000.000 đồng.
146/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 687
- 5
Năm 1990, ông Nguyễn Văn Tuy cho ông một mảnh đất có chiều ngang 15m và chiều dài 20m. Việc này có sự xác nhận của tổ tự quản và UBND phường Y, TP VT. Gia đình ông sử dụng đất đến năm 1992 thì ông chuyển nhượng cho ông BĐ_Trần Quốc Khả một phần đất với diện tích ngang 7,5m và dài 18m, tổng diện tích 135m2, giá chuyển nhượng là 03 chỉ vàng. Còn lại phần đất 2x7,5m=15m2 phía sau ông không chuyển nhượng mà chỉ cho ông BĐ_Khả mượn để sử dụng nhưng đến nay ông BĐ_Khả không trả lại cho ông mà lại đi làm thủ tục ffứng tên diện tích đất này trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông BĐ_Khả. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Khả phải trả lại cho ông 15m2 đất này.
145/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1287
- 15
Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Bà NĐ_Ngọc và ông BĐ_Đào Anh Tính có ký hợp đồng ngày 01/11/2006 cho ông BĐ_Tính thuê QSD đất của NĐ_Ngọc tại phường PT, Thị xã BR để kinh doanh nhà hàng ăn uống, thời gian thuê 01 năm, giá thuê là 30.000.000đ/năm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, mẹ bà NĐ_Ngọc là LQ_Nguyễn Thị Mộng thay mặt bà NĐ_Ngọc giao dịch với ông BĐ_Tính. Theo cam kết trong hợp đồng thì ông BĐ_Tính phải trả toàn bộ tiền thuê ngay sau khi ký hợp đồng, nhưng thục tế ông BĐ_Tính chỉ mới đưa trước 10.000.000đ và trong số này, bà chỉ nhận 8.600.000đ vì đồng ý hỗ trở lại cho ông BĐ_Tính 05 xe đất san lấp trị giá 1.400.000đ. Sau đó ông BĐ_Tính đã xây dựng quán và kinh doanh ăn uống, nhưng không thanh toán nốt số tiền còn lại cho bà, Ngày 04.11.2007, hai bên ký bản thanh lý hợp đồng, bà đã tự nguyện bớt tiếp 10.000.000đ trong số 20.000.000đ còn lại. Ông BĐ_Tính cũng đã cam kết trả đủ 10.000.000đ còn lại vào ngày 10/12/2007 để xin ký kết hợp đồng mới. Tuy nhiên ông BĐ_Tính không trả tiền mà còn tự ý xây thêm trụ cổng và vẫn tiếp tục kinh doanh cho đến nay. Tại Tòa án, bà yêu cầu ông BĐ_Tính trả lại mặt bằng đất, không yêu cầu ông BĐ_Tính trả thêm bất cứ khoản tiền nào mà còn hỗ trợ thêm cho ông BĐ_Tính 20.000.000đ.