03/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 3249
- 152
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ngày 19 tháng 9 năm 2011, bà NĐ_Chi được Tổng giám đốc BĐ_Công ty Mai Anh triệu tập để họp giải quết về hợp đồng lao động và thông báo rằng sẽ chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 19 tháng 9 năm 2011 và yêu cầu bà NĐ_Chi bàn giao lại toàn bộ công việc, không được tiếp tục đến công ty. Bà NĐ_Chi không đồng ý với yêu cầu trên của ông và yêu cầu cho tiếp tục làm việc, tuy nhiên bị từ chối. Sau ngày 19/9/2011, bà NĐ_Chi không tới công ty làm việc và công ty chấm dứt bảo hiểm y tế đã cấp cho bà NĐ_Chi kể từ ngày 18/10/2011
22/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2403
- 89
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh trình bày tại Tòa: Ngày 05/3/2012 bà được BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai (sau gọi tắt là công ty) tuyển dụng làm việc với vị trí kế toán trưởng theo thư mời làm việc ngày 28/2/2012. Sau khi xem xét và đồng ý với những nội dung trong thư mời làm việc trên, bà đồng ý thử việc tại công ty. Hợp đồng thử việc theo quy định của công ty thời gian thử việc là 90 ngày. Tuy nhiên bà tìm hiểu thì được biết đối với trình dộ của bà thì thời gian thử việc đối đa không quá 60 ngày theo quy định tại Điều 32 Bộ luật Lao động. Sau khi hết thời gian 60 ngày, công ty không ký hợp đồng lao động chính thức với bà nhưng để bà tiếp tục làm việc tại công ty xem như bà đã trở thành nhân viên chính thức của công ty.
20/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2016
- 75
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Vào ngày 14/5/2012 sau khi kết thúc thành công thời gian thử việc, thì phía BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã chấp nhận tuyển dụng ông NĐ_Khang vào làm việc chính thức (chấp nhận bằng lời nói) và đồng thời gửi cho ông NĐ_Khang một bản hợp đồng lao động, theo đó ông NĐ_Khang được chính thức tuyển dụng vào vị trí Giám đốc kinh doanh và chăm sóc khác hàng trong thời gian 12 tháng kể từ ngày 14/5/2012 với mức lương là 2.000 USD/tháng. Vào ngày 06/6/2012 ông NĐ_Khang đưa ra bản thảo cuối cùng của hợp đồng để các bên ký kết, nhưng vào ngày 12/6/2012 ông Suetsugu Naruhito – Giám đốc điều hành của BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã thông báo cho ông NĐ_Khang biết công ty sẽ chấm dứt việc tuyển dụng ông NĐ_Khang vào ngày 12/6/2012 vì tình hình tài chính khó khăn của công ty, đồng thời yêu cầu ông NĐ_Khang trả lại tài sản (như máy vi tính, thẻ taxi và chìa khóa văn phòng).
02/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 1039
- 20
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Nguyên đơn trình bày: Ông và BĐ_Công ty Bonnataka haghtike International (BĐ_Công ty BHI) có ký hợp đồng lao động số 098/10-HĐLĐ ngày 02/8/2010, hợp đồng xác định thời hạn 01 năm (từ 02/8/2010 đến ngày 01/8/2011), với công việc là đồ họa viên, mức lương 17.500.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc ông đã nhận được Quyết định nâng bậc và tăng lương vào ngày 01/1/2011 lên 22.000.000 đồng/tháng và ngày 20/7/2011 lên 25.000.000 đồng/tháng với công việc là Kiến trúc sư - Phòng thiết kế. Khi hết hạn hợp đồng (ngày 02/8/2011), ông được công ty thông báo sẽ ký tiếp một hợp đồng xác định thời hạn 01 năm nhưng đến ngày 08/8/2011 ông được yêu cầu ký Hợp đồng lao động thời vụ 08 tháng có giá trị từ ngày 02/8/2011 đến ngày 31/03/2012, phòng nhân sự giải thích rằng đến tháng 04/2012 có thể công ty sẽ ký tiếp hợp đồng lao động với ông. Mặc dù hợp đồng chi ký có 08 tháng nhưng mức lương và vị trí công việc của ông vẫn là kiến trúc sư - Phòng thiết kế cho Dự án tòa nhà Sài Gòn M & C.
01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1850
- 40
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ông Phạm Văn Trí đại diện cho ông NĐ_Võ Văn Tuấn và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang trình bày: nguồn gốc đất diện tích khoảng 11.000m2 thửa số 930, 931, 932, 933 tờ bản đồ số 12 cùng tọa lạc tại ấp Phú Hòa, xã LĐ, thành phố TV, tỉnh TV là của ông bà, cha mẹ cho lại bà Võ Thị Bửu Ân và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang canh tác từ sau giải phóng đến nay. Bà Võ Thị Bửu Ân do bị mất năng lực hành vi dân sự nên nhiều năm nay anh NĐ_Tuấn con bà Ân trực tiếp canh tác, cất nhà ở ổn định và đã đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 930 diện tích 1.610m2, thửa số 933 diện tích 4.460m2. Phần còn lại do bà NĐ_Võ Thị Minh Trang khai thác canh tác, cất nhà, trồng cây trái, cây lâu năm, sử dụng ổn định trên 30 năm nay và có đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 931, 932 diện tích 4.970m2