22/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2403
- 89
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Trinh trình bày tại Tòa: Ngày 05/3/2012 bà được BĐ_Công ty TNHH giải pháp tiếp thị Hoa Mai (sau gọi tắt là công ty) tuyển dụng làm việc với vị trí kế toán trưởng theo thư mời làm việc ngày 28/2/2012. Sau khi xem xét và đồng ý với những nội dung trong thư mời làm việc trên, bà đồng ý thử việc tại công ty. Hợp đồng thử việc theo quy định của công ty thời gian thử việc là 90 ngày. Tuy nhiên bà tìm hiểu thì được biết đối với trình dộ của bà thì thời gian thử việc đối đa không quá 60 ngày theo quy định tại Điều 32 Bộ luật Lao động. Sau khi hết thời gian 60 ngày, công ty không ký hợp đồng lao động chính thức với bà nhưng để bà tiếp tục làm việc tại công ty xem như bà đã trở thành nhân viên chính thức của công ty.
20/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2016
- 75
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Vào ngày 14/5/2012 sau khi kết thúc thành công thời gian thử việc, thì phía BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã chấp nhận tuyển dụng ông NĐ_Khang vào làm việc chính thức (chấp nhận bằng lời nói) và đồng thời gửi cho ông NĐ_Khang một bản hợp đồng lao động, theo đó ông NĐ_Khang được chính thức tuyển dụng vào vị trí Giám đốc kinh doanh và chăm sóc khác hàng trong thời gian 12 tháng kể từ ngày 14/5/2012 với mức lương là 2.000 USD/tháng. Vào ngày 06/6/2012 ông NĐ_Khang đưa ra bản thảo cuối cùng của hợp đồng để các bên ký kết, nhưng vào ngày 12/6/2012 ông Suetsugu Naruhito – Giám đốc điều hành của BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã thông báo cho ông NĐ_Khang biết công ty sẽ chấm dứt việc tuyển dụng ông NĐ_Khang vào ngày 12/6/2012 vì tình hình tài chính khó khăn của công ty, đồng thời yêu cầu ông NĐ_Khang trả lại tài sản (như máy vi tính, thẻ taxi và chìa khóa văn phòng).
02/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 1039
- 20
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Nguyên đơn trình bày: Ông và BĐ_Công ty Bonnataka haghtike International (BĐ_Công ty BHI) có ký hợp đồng lao động số 098/10-HĐLĐ ngày 02/8/2010, hợp đồng xác định thời hạn 01 năm (từ 02/8/2010 đến ngày 01/8/2011), với công việc là đồ họa viên, mức lương 17.500.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc ông đã nhận được Quyết định nâng bậc và tăng lương vào ngày 01/1/2011 lên 22.000.000 đồng/tháng và ngày 20/7/2011 lên 25.000.000 đồng/tháng với công việc là Kiến trúc sư - Phòng thiết kế. Khi hết hạn hợp đồng (ngày 02/8/2011), ông được công ty thông báo sẽ ký tiếp một hợp đồng xác định thời hạn 01 năm nhưng đến ngày 08/8/2011 ông được yêu cầu ký Hợp đồng lao động thời vụ 08 tháng có giá trị từ ngày 02/8/2011 đến ngày 31/03/2012, phòng nhân sự giải thích rằng đến tháng 04/2012 có thể công ty sẽ ký tiếp hợp đồng lao động với ông. Mặc dù hợp đồng chi ký có 08 tháng nhưng mức lương và vị trí công việc của ông vẫn là kiến trúc sư - Phòng thiết kế cho Dự án tòa nhà Sài Gòn M & C.
02/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1127
- 24
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình
Ngày 17/08/2011,UBND xã AT ban hành Quyết định số 64/QĐ-UBND, với nội dung yêu cầu tôi phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào lưới B40 và 01 số cây xanh trồng trên diện tích đất đường đi công cộng do Nhà nước quản lý đối với hộ của tôi, ở tại Hội Tín, AT. Sau đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã AT, huyện TA tổ chức thực hiện quyết định bằng việc cưỡng chế, theo biên bản cưỡng chế thu giữ tài sản ngày 22/08/2011. Việc Chủ tịch UBND xã AT ký quyết định và thực hiện quyết định nêu trên là không đúng thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật (vì không cho thời gian khiếu nại), gây thiệt hại tài sản và các quyền lợi của gia đình tôi. Trước đây tôi đã làm đơn yêu cầu UBND xã AT giải quyết nhưng không thực hiện.
09/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1579
- 43
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai
Theo đơn khởi kiện của ông NĐ_Trần Thành Tuấn đề ngày 07 tháng 05 năm 2012 có nội dung như sau: Vào ngày 16 tháng 05 năm 2011, BĐ_Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố CM ra Quyết định số 15/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, quyết định có nội dung buộc ông tháo dở phần mái che đã xây dựng lấn sang phần đất bảo lưu ven sông của bà LQ_Lê Thị Bích Hằng diện tích 7,8m2 tọa lạc tại ấp 1, xã TV, thành phố CM, tỉnh CM. Ngày 27/02/2012 ông khiếu nại quyết định nêu trên đến Chủ tịch UBND TP CM, ngày 16/04/2012 UBND TP CM ra văn bản số 299/UBND-ĐT với nội dung trả lời khiếu nại của ông đã hết thời hiệu.