05/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 3998
- 144
Ngày 15/01/2011, NĐ_Công ty cổ phần gạch ngói Đồng Xuân (sau đây gọi tắt là NĐ_Cty Gạch Ngói Đồng Xuân) có ông Nguyễn Đức Hoàng là tổng giám đốc đại diện và Chi nhánh Doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Hồng (sau đây gọi tắt DNTN Nguyễn Hồng) có ông LQ_Nguyễn Văn Thiệu là chủ DNTN Nguyễn Hồng đại diện ký Hợp đồng nhà phân phối số 041/GNĐN-KD.11. Theo nội dung của hợp đồng thì NĐ_Cty Gạch Ngói Đồng Xuân cung cấp hàng hóa là gạch xây, gạch lát, ngói lợp, gạch trang trí cho DNTN Nguyễn Hồng. Ngược lại, DNTN Nguyễn Hồng có trách nhiệm mở thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại BĐ_Ngân hàng Thương mại Cổ phần SGTT – Chi nhánh KG (sau đây gọi tắt là BĐ_Ngân hàng). Trên cơ sở đó, BĐ_Ngân hàng đã phát hành 02 thư bảo lãnh gồm: thư bảo lãnh số 741 ngày 18/08/2011 (có hiệu lực từ ngày 18/08/2011 đến ngày 18/02/2012) và thư bảo lãnh số 138 ngày 09/02/2012 (có hiệu lực từ ngày 19/02/2012 đến ngày 19/08/2012) để bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán của DNTN Nguyễn Hồng tại Hợp đồng nhà phân phối số 041/GNĐN-KD.11 ngày 15/01/2011 với số tiền bảo lãnh tối đa là 2.000.000.000 đồng.
78/2014/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2212
- 50
Tranh chấp hợp đồng thuê tàu biển
Vào ngày 01/7/2005, ông NĐ_Nguyễn Việt Từng ký hợp đồng số 01-07/HĐTT 2005 với BĐ_Công ty TNHH An Na ( BĐ_Công ty An Na) về việc thuê con tàu An Na 07, có những nội dung chính: Thời gian giao tàu: Tháng 7/2005; Cảng nhận/giao tàu: Một cảng an toàn ở T.p HCM hoặc VT; Bên A (bên cho thuê tàu) hoàn chỉnh việc sửa chữa trong tháng 7/2005 trước khi giao tàu cho bên B (bên thuê tàu); Hai bên giao tàu theo thực tế nguyên trạng, kèm theo các biên bản bàn giao từng phần, tổng thể và được ký bởi hai bên; Bên B thuê tàu An Na 07 trong 06 tháng kể từ khi hai bên ký biên bản giao tàu và giấy tờ pháp lý; Giá thuê tàu là 80.000.000 đồng/tháng theo phương thức thuê tàu trần, người thuê tàu toàn quyền khai thác và lập đội ngũ thuyền viên; Bên B ký quỹ 03 tháng tiền thuê tàu là 240.000.000 đồng; Vùng biển hoạt động của tàu sẽ tuân thủ theo giấy phép của Đăng kiểm Việt Nam;
49/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1231
- 33
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ
Cùng ngày 20/12/1971, bà ký 2 hợp đồng mua của bà Phạm Thị Nghĩa căn nhà số 105 và mua của bà Trần Thị Nga căn nhà số 107 cùng tọa lạc tại đường số 6, bến PTH, khóm 5 Liên Gia 26, phường CH, quận X, đô thành SG cũ, giấy tờ mua bán đều được chính quyền chế độ cũ xác nhận; nay mang số kép là 105-107 ĐCL, phường 4, quận X Thành phố HCM. Sau 1975, bà xuất cảnh sang Hoa Kỳ, nên ủy quyền cho chồng bà là ông Nguyễn Kim Paul quản lý, sử dụng. Quá trình sử dụng nhà, ông Paul đã đưa bà BĐ_Linh về sống chung tại nhà tranh chấp trên. Ngày 01/7/2002, ông Paul chết. Ngày 14/7/2002, bà lập hợp đồng ủy quyền cho bà BĐ_Linh quản lý nhà đất này suốt đời với điều kiện không được thế chấp, cầm cố, cho thuê hoặc chuyển dịch quyền sở hữu dưới bất kỳ hình thức nào, mọi sự thay đổi kiến trúc phải có ý kiến của bà. Nhưng trong thời gian quản lý nhà, bà BĐ_Linh tự ý cho người khác thuê nhà, không được sự đồng ý của bà. Năm 2006, bà về Việt Nam bị bà BĐ_Linh đuổi ra khỏi căn nhà phải nhờ chính quyền can thiệp. Bà yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền quản lý nhà, bà BĐ_Linh phải trả lại nhà, bà đồng ý hỗ trợ bà BĐ_Linh 30.000.000đ để tìm nơi khác ở.
75/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 506
- 7
Theo bằng khoán điền thổ (tiếng Pháp), các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các đương sự thì nhà đất tranh chấp tại Đường Hàng Lọng số 77, Bằng khoán điền thổ số 293, ĐK, HN, nay là số 75-77 LD, phường CN, HK, HN có nguồn gốc là của cố Trần Thị Bàn đứng tên mua năm 1941. Sau đó, cố Bàn cho cháu ngoại là cụ NĐ_Trần Thị Nga toàn bộ nhà đất đã mua theo chúc thư ngày 15/7/1941. Năm 1944, cụ NĐ_Nga kết hôn với cụ Phạm Ngọc Yến và về ở tại nhà đất này. Năm 1946, cụ NĐ_Nga và cụ Yến đã sang tên trên bằng khoán điền thổ. Năm 2000, cụ Yến chết không để lại di chúc. Năm 2003, cụ NĐ_Nga được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 120m2, diện tích đất 253m2.
69/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 603
- 15
Tranh chấp quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản
Cụ Mạch Bững và cụ Nguyễn Thị Huỳnh có 13 người con, nhưng 5 người đã chết (khi còn nhỏ), còn lại 8 người là: bà LQ_Mạch Thị Bảo (đang ở Canada), bà LQ_Mạch Thị Thu Ca, ông BĐ_Mạch Văn Bình, ông LQ_Mạch Văn Tân (ở Hoa Kỳ), bà LQ_Mạch Thị Châu, ông LQ_Mạch Văn Minh, ông và bà LQ_Mạch Thị Thanh. Về tài sản: Hai cụ có căn nhà 80m2 (4m x 20m) trên phần đất tại khóm 1, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TV. Năm 1982 cụ Bững chết không để lại di chúc. Trước giải phóng năm 1975, ông BĐ_Bình lập gia đình và ở tại Bến Tre. Sau giải phóng, vợ chồng ông BĐ_Bình và con là anh BĐ_Mạch Thiên Kiên về ở chung nhà với hai cụ. Năm 1983, cụ Huỳnh kê khai đất theo Chỉ thị 299/TTg.