188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 515
- 11
Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.
203/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 245
- 14
Ngày 13/7/2004, cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng (tức Hừng) có đơn khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Nguyễn Văn Lĩnh trả lại nhà, đất tọa lạc tại thôn PT, xã MS, huyện Giang Văn, tỉnh HY. Theo phía nguyên đơn trình bày: cụ NĐ_Nguyễn Hữu Phưởng được bố mẹ đẻ là cụ Nguyễn Hữu Quyên để lại một ngôi nhà tre trên diện tích 286m2 đất. Trong thời kỳ chống pháp, nhà bị đốt cháy, cụ NĐ_Phưởng đi công tác nên thửa đất trên cụ gửi họ hàng trông coi. Từ năm 1980 đến năm 1986 cụ NĐ_Phưởng nhờ ông LQ_Tí (là cháu họ) trông đất giúp, ông LQ_Tí có xây một móng nhà 3 gian đất này. Năm 1987 ông LQ_Tí trả đất cho cụ NĐ_Phưởng. Cụ NĐ_Phưởng giao thửa dất cho ông LQ_Nguyễn Văn Sừ (là con trai cụ Đỗ em ruột cụ NĐ_Phưởng) xây nhà ở để trông coi đất,
19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1428
- 24
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1371
- 15
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
173/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 316
- 6
Nguồn gốc đất đang tranh chấp là của cụ LQ_Lạc Tuyên, khoảng năm 1983 - 1984 cụ LQ_Lạc Tuyên cho cụ Nguyễn Thị Ngà ở tạm 1 nền nhà, đến năm 1988 hai bên thỏa thuận (làm giấy tay) cụ LQ_Lạc Tuyên bán cho cụ Ngà giá 12 chỉ vàng (cụ LQ_Lạc Tuyên cho rằng bán cho bà Ngà diện tích 04m X 12m với giá 10 chỉ vàng 24kr). Ngày 30/3/1992, cụ Ngà được ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 350m2 (T), thửa 444, tờ bản đồ số 3. Năm 1993, ông BĐ_Lạc Ước (con cụ LQ_Lạc Tuyên) được Ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.600m2 gồm hai thửa: thửa 447 diện tích đất 800m2 (T) và thửa 448 diện tích 800m2 (CDK) tờ bản đồ số 3, tất cả các thửa trên (444, 447, 448) đều tọa lạc tại ấp Phú Mý Hiệp, thị trấn CTH huyện CT, tỉnh ĐT. Ngày 2/3/2002, cụ Nguyễn Thị Ngà chất, hiện tại trên diện tích đất tranh chấp (theo đo đạc thực tế của địa chính thị trấn là 455m2) có 2 căn nhà, nhà của cụ Ngà thì ông BĐ_Nguyễn Văn Chiến (con trai cụ Ngà) ở và căn nhà còn lại (phía sau) là bà BĐ_Nguyễn Thị Tuyết Kim (con gái cụ Ngà) ở.